Việt Nam là một đất nước luôn nằm trong top được xem là thiên đường ẩm thực của thế giới với rất nhiều những món ăn ngon, dân giã và đơn giản mà lại vô cùng đặc sắc. Đây cũng được xem là một đề tài rất hay và sôi nổi trong văn thuyết minh đối với các bạn học sinh. Vậy việc trình bày một món ăn dưới dạng bài văn thuyết minh như thế nào? Mời các bạn cùng tham khảo một số bài văn thuyết minh về món ăn mà chúng tôi tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Dàn ý bài văn thuyết minh về món ăn

Mở bài

*Giới thiệu về món ăn mà em định thuyết minh.

Thân bài

*Nguồn gốc lịch sử:

  • Món ăn có từ khi nào?
  • Ý nghĩa của món ăn trong đời sống (Món ăn truyền thống của đất nước, vùng miền hay  món ăn dân dã của người Việt Nam,…)

*Nguyên liệu:

  • Món ăn được làm từ những nguyên liệu gì?
  • Cần sử dụng các loại gia vị nào?

*Cách chế biến:

  • Chế biến món ăn cần trải qua những công đoạn nào?
  • Trong quá trình chế biến cần lưu ý gì?

*Yêu cầu thành phẩm:

  • Hình thức, hương vị
  • Có thể ăn kèm với đồ ăn nào?

Kết bài

  • Khẳng định giá trị của món ăn
  • Nêu cảm nghĩ về món ăn đó

Top 14 bài văn mẫu thuyết minh về món ăn chọn lọc hay nhất!

Dưới đây là top 14 bài văn mẫu thuyết minh về món ăn chọn lọc hay nhất dành cho các em học sinh tham khảo!

Thuyết minh về món ăn- Nem chua Thanh Hoá

Mỗi mảnh đất, mỗi địa danh trên đất nước ta đều có những món ăn độc đáo, được xem là đặc sản của mỗi vùng miền. Nếu Hà Nội được biết đến với món bún chả nướng, cốm làng Vòng, Hải Dương gắn liền với món bánh đậu xanh truyền thống, nhớ đến Sài Gòn người ta nhớ đến món bánh tráng trộn cay cay chua chua thì nhắc đến Thanh Hóa mọi người không thể nào quên được món nem chua. Nem chua Thanh Hóa đã trở thành nét đặc trưng tiêu biểu khi nhắc tới mảnh đất xứ Thanh.

Có thể thấy, món nem chua xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta như nem chua Hà Nội, nem chua Quảng Ninh, nem chua Huế,… nhưng có lẽ nổi tiếng và đậm vị hơn cả chính là nem chua Thanh Hóa. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, những người dân ở mảnh đất Thanh Hóa vẫn không biết chính xác món nem chua có từ bao giờ và nguồn gốc của nó ra làm sao. Những người dân nơi đây chỉ biết rằng nem chua đã trở thành món ăn không thể thiếu và đã đi vào tiềm thức của họ từ ngàn đời nay. Mặc dù không bất cứ ai có thể biết rõ thời điểm ra đời cũng như nguồn gốc của món ăn này, nhưng những năm 60, 70 của thế kỉ trước, ở nơi đây đã xuất hiện những cơ sở sản xuất nem chua đầu tiên và cũng kể từ thời điểm này, món nem chua Thanh Hóa trở thành một loại hàng hóa trên thị trường.

Cũng như những món ăn khác, nem chua Thanh Hóa cũng có những đặc điểm, những đặc trưng rất riêng, không trộn lẫn với bất cứ món ăn nào. Nem chua Thanh Hóa thường có dạng hình trụ, chỉ lớn hơn ngón tay trỏ của người trưởng thành và được gói trong những chiếc lá chuối xanh, đồng thời được buộc dây chun theo hình chữ thập. Bên trong lớp vỏ lá chuối chính là ruột của chiếc nem với màu hồng tươi ngon của thịt xen lẫn với những lát tỏi cắt mỏng, những miếng ớt đỏ tươi và cả những chiếc lá đinh lăng, lá rau răm. Hương vị của nem chua Thanh Hóa rất đặc trưng, có vị chua chua của thịt đã ướp, vị thơm của lá rau răm cùng lá đinh lăng, vị cay cay, nồng nồng của ớt và tỏi. Tất cả những hương vị ấy đã quyện hòa vào nhau làm nên cái vị, cái hương độc đáo của món nem chua.

Nhìn có vẻ đơn giản, song để làm nên được nem chua thì không phải là công việc dễ dàng và đơn giản. Để làm ra món nem chua, trước hết, người làm nem phải chuẩn bị những nguyên liệu cần thiết cho món ăn này. Đầu tiên không thể thiếu đó chính là lá chuối để gói nem. Lá chuối thường được lựa chọn đó chính là lá chuối ngự, vì nó vừa xanh, vừa dày, đảm bảo trong quá trình vận chuyển hay lưu giữ nem vẫn có thể lên men.

Cùng với đó cũng cần chuẩn bị chun để buộc chặt những chiếc nem sau khi đã được gói. Thêm vào đó, cũng cần chuẩn bị, tỏi, ớt và cắt chúng thành miếng mỏng, lá đinh lăng và rau răm cũng được nhặt sạch và cắt nhỏ. Đặc biệt, nguyên liệu chính để làm nên món nem chua Thanh Hóa đó chính là thịt lợn nạc và bì lợn. Thịt và bì lợn phải được chọn là loại thịt còn tươi, nhất là loại thịt được chọn ngay khi mổ lợn, sau đó được đưa đi xay nhuyễn. Ngoài ra, để làm món nem chua cũng cần chuẩn bị các gia vị khác như tiêu, đường, muối, thính gạo,…

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu, người ta bắt đầu tiến hành bắt tay vào trộn và gói nem. Người làm nem sẽ mang thịt lợn nạc, bì lợn đã được xay nhuyễn cùng tiêu, cùng các gia vị khác như thính gạo, muối, đường trộn lẫn vào nhau. Sau khi đã trộn lẫn các nguyên liệu, sẽ đến công đoạn gói nem, phần hỗn hợp trên sẽ được gói thành những thỏi nem nhỏ cùng với vài lá đinh lăng, lá rau răm, vài lát tỏi và vài miếng ớt ở trong một miếng ni lông mỏng, trong suốt cho kín, sau đó bọc tiếp bên ngoài hai lớp lá chuối và được cố định lại bằng một sợi dây chun buộc theo hình chữ thập.

Nem gói xong sẽ được ủ để lên men, quá trình này sẽ làm nem chín và có thể mang ra sử dụng. Tùy vào từng mùa mà thời gian ủ nem có thể khác nhau, vào những ngày mùa hè, nhiệt độ lên cao, nem có thể ủ từ 6 đến 8 tiếng, nhưng vào những ngày mùa đông, do thời tiết lạnh, nhiệt độ xuống thấp nên thời gian ủ nem thường kéo dài từ 18 đến 24 tiếng. Thêm vào đó, mỗi gia đình, mỗi cơ sở sản xuất nem lại có những quá trình trộn và ủ riêng để tạo nên những hương vị khác nhau.

Nem chua Thanh Hóa là một món ăn phổ biến và được nhiều người biết đến. Với mức giá giao động từ 3000 đến 5000 đồng một chiếc, nem chua Thanh Hóa đang trở thành một mặt hàng được nhiều người yêu mến, ưa thích trên thị trường. Với những hương vị độc đáo, đây là món ăn được nhiều người yêu thích trong những bữa cơm hằng ngày và nhất là mỗi dịp Tết đến xuân về. Cùng với đó, nem chua Thanh Hóa cũng đã và đang trở thành món quà cho bạn bè, người thân mỗi dịp chúng ta về với mảnh đất nơi đây.

Tóm lại, nem chua Thanh Hóa là một trong số những món ăn nổi tiếng ở Thanh Hóa nói riêng, ở trên đất nước ta nói chung. Nem chua Thanh Hóa với hương vị độc đáo khiến người ta dẫu chỉ nếm thử một lần cũng sẽ không thể nào quên.

Thuyết minh về món ăn- Phở Hà Nội

Hà Nội, mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, người ta đã tìm thấy ở nó biết bao những vẻ đẹp tuyệt vời và kỳ bí, một Hà Nội với lịch sử vẻ vang anh hùng chưa từng thất thủ trong bất kỳ cuộc chiến nào, một Hà Nội đế kinh muôn đời, hay một Hà Nội cổ kính rêu phong, lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt bao đời. Hà Nội mang trong mình nhiều sự xưa tích cũ, cũng là nơi dừng chân tuyệt vời đối với nhiều du khách cả trong và ngoài nước, và dĩ nhiên rằng níu kéo được con người Hà Nội không chỉ mặn mà với những vẻ đẹp lịch sử hay sự phát triển mạnh mẽ thời hiện đại mà quan trọng rằng thủ đô của ta có một nền ẩm thực vô cùng phong phú và đa dạng. Thạch Lam đã khen rằng “Quà Hà Nội xưa nay vẫn nổi tiếng ngon lành và lịch sự”, 36 phố phường mỗi nơi lại có riêng cho mình những bí truyền ẩm thực, lấy làm cái lợi thế riêng để tồn tại hàng trăm năm. Người ta thường nhắc đến Hà Nội với món cốm xanh của các cô gái làng Vòng, nhưng càng nhắc nhiều hơn đến món phở Hà Nội một món ăn đã trở thành “linh hồn”, tinh hoa trong làng ẩm thực Việt.

Trong những bài viết về những thức quà vặt ngon nghẻ của Hà Nội, không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam viết một lần, rồi lại bổ sung thêm một lần nữa về món phở cổ truyền, chỉ bởi đơn giản rằng ông nghĩ đã là món thú vị bậc nhất đất kinh đô, thì nào có thể nói trong vài ba trang chữ. Trong số ấy tôi quả thực ấn tượng nhất với một nhận định của ông rằng “Phở là thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ ở riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”. Quả thực chẳng có gì để mà không tin tưởng lời Thạch Lam, bởi vốn dĩ tôi chưa đi nhiều nơi, chưa ăn qua nhiều thức quà, thế nhưng cũng không ít lần nếm được món phở, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, hoặc các tỉnh Tây Nguyên và may mắn nhất tôi đã được nếm cả phở Hà Nội.

Và phải công nhận rằng phở ở những nơi khác dù có mang danh người Hà Nội làm thì cũng vĩnh viễn không có được cái ngon ngọt chính tông như ở đất kinh đô, có lẽ là do thủy thổ, hoặc do người bán phở đã xa quê hương quá lâu nên tay nghề cũng mất đôi chút, hoặc là họ ẩu, nghĩ rằng dân xứ khác ít sành như người Hà Nội chăng? Phở là món ăn truyền thống và lâu đời của dân tộc và cũng chẳng ai biết chính xác nó có từ bao giờ do ai kỳ công chế tạo nên hay chỉ đơn giản là một sự kết hợp tình cờ khi người ta định nấu bún mà vô tình làm ra phở thì tôi cũng chẳng biết. Chỉ biết rằng cái món phở thân yêu ấy đã theo từng gánh hàng rong và tỏa hương khắp phố phường Hà Nội vào cái thế kỷ 18, 19 và trở thành kế sinh nhai chính của một cơ số những con người biết nấu và nấu giỏi.

Đồng thời cũng trở thành thức quà ưa thích của tất cả các hạng người trong thành phố từ các anh công chức, thợ thuyền, đến các bà các mẹ hay đi chợ, các cô các cậu đi học, trở thành món ăn chính đáng không thể thiếu của nhiều người. Điều đó chứng tỏ phở là một món bình dân và ngon tuyệt nên người ta mới yêu chiều như thế. Cách đây một thế kỷ, phở bán gánh là một đặc sản một nét văn hóa của người Hà Nội, nhưng dần dà khách đông hơn, đặc biệt là qua hai cuộc chiến những người hay gánh phở đi bán cũng biệt tăm biệt tích, đến khi hòa bình, đất nước lập lại, thì phở không còn được gánh trên vai những anh, những chị mà trở thành món được bán hẳn trong hàng trong quán.

Thực khách quên đi cái cảnh ngồi xổm xì xụp húp miếng nước lèo nóng và nay được ngồi trên ghế trên bàn biết bao thoải mái để tận tình thưởng thức. Tuy nhiên phở gánh và phở tiệm ít nhiều cũng có những cái thú, cái vị khác biệt, mà khác ở đâu thì chỉ những con người đã từng trải qua cả hai kiểu ấy mới hiểu, ví như Thạch Lam hay Tô Hoài, những con người rành rọt về băm sáu phố phường Hà Nội chẳng hạn.

Một bát phở ngon cũng như một vị chuyên gia vậy, chính là mang trong mình nó lắm yêu cầu khắt khe. Nước dùng hay còn gọi là nước lèo giống như linh hồn của bát phở phải thực trong và ngọt, cái ngọt ấy phải được chiết ra từ xương ống của heo của bò chứ không phải từ thứ gia vị mà ngày nay người ta vẫn thường quảng cáo “ngon từ thịt ngọt từ xương”. Những bát phở mà ngọt kiểu ấy ăn được dăm miếng thì đã thấy vị mì chính lên tận óc, chẳng lấy gì làm ngon, và tiệm ấy chắc cũng sớm mất khách, nếu ở Hà Nội.

Thêm nữa là bánh phở, tức là cái sợi trông như sợi mì Quảng (ai ăn mì Quảng thì có lẽ không lạ lẫm gì), phải trắng, dẻo mềm và không bị nát, tóp mỡ phải giòn thơm chứ không dai cứng. Đồng thời những thứ gia vị như vài giọt chanh gắt, ớt cay, hành tây và chút rau thơm tươi thì không bao giờ được thiếu. Ngoài ra còn có chỗ người ta thêm một chút hồ tiêu Bắc, vài giọt cà cuống để phở được đậm vị và dậy mùi hơn. Phở truyền thống thì ắt phải có thịt bò, người ta có nhiều cát ăn, người thích tái, kẻ thích nạm, kẻ thích ăn xương thịt, có người lại ưng nửa nạc nửa mỡ, người ưng ăn ba chỉ,… Nói chung tùy khẩu vị mà người bán phở đáp ứng cho thực khách.

Và trong quá trình phát triển cả hàng thế kỷ của mình, phở ta cũng không phải không có chút biến đổi, thứ mà ta hay gọi là phở “cải lương”, ví như người ta làm phở gà, phở tôm, phở heo,… hoặc có người rụt rè hơn tí thì chỉ thêm một vài vị rau thơm mà xưa nay không có ví như thêm hành lá, húng lìu, húng chó, rau giá, … hoặc mạnh dạn thêm tí gia vị vào nước dùng tỉ như dầu vừng, hoặc một món ăn kèm thêm no như đậu phụ trắng. Nhưng thường những cái “cải lương” nó kém được hoan nghênh hơn, người Hà Nội sành ăn và ưa truyền thống, cũng như bản thân chúng ta giờ thấy áo dài “cách tân” thì đâm ra ngứa mắt vậy. Nhưng có lẽ những món phở mới mẻ ấy lại có chỗ phát triển nếu đi ngược vào phương Nam.

Về cách làm, thú thực nếu không có một bí quyết gia truyền, một người thầy chỉ dạy tận tình thì có lẽ khó có ai có thể nấu ra được một bát phở ngon đúng nghĩa. Với vai trò chỉ là người thưởng thức và nghe lỏm được đôi câu chuyện nấu phở, thì tôi chỉ biết được rằng người ta đã phải nấu một nồi nước dùng vừa trong vừa ngọt như thế trong vòng 8-9 tiếng gì đó, với nguyên liệu chính là xương ống bò, được chế cùng với một loạt các loại gia vị như hồi, quế, thảo quả, gừng, sá sùng, hành tây, hành củ,… mà tôi nghe tên thì vị nào cũng là một vị thuốc cả.

Với lại nước dùng phở nó kỳ công còn ở cả công đoạn sắp đặt gia vị, không phải người ta cứ thế đổ cả xương, cả nguyên phụ liệu vào mà nấu lên 10 tiếng, mà trước hết những thứ gia vị kia cũng phải được sơ chế bằng cách nướng lên nữa cơ. Tôi không hiểu nguyên do nhưng có lẽ là để cho gia vị được thơm hơn, đồng thời loại bỏ đi một số hương vị không cần thiết chẳng hạn hoặc sâu xa hơn nữa thì có lẽ là cách nướng ấy nó để cho mấy thứ dược liệu này có một công dụng nào đó hữu ích hơn trong bát phở chăng.

Sau khi ninh đủ 10 tiếng, cốt ngọt từ xương đã đi vào nước dùng, người ta lại lọc lại một lần, để chắt được cái thứ nước trong và màu đẹp, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ thực khách. Còn về “bánh phở”, thứ tôi vẫn gọi là sợi phở ấy, người ta làm cũng kỳ công, phải lựa chọn được thứ bột gạo trắng, nhào bột rồi ủ bột thật kỹ, sau đó cắt bánh phở thật khéo, để bánh phở không bị nát, khi gắp lên thấy sợ phở mượt, trắng ngần, ăn vào thì dai mềm đó mới đúng là tuyệt vời.

Khi thực khách gọi món, người nấu nhanh chóng sắp bánh phở ngay ngắn vào một cái tô lớn, sạch sẽ, lại sắp hành tây, thịt thà lên trên, rồi múc lấy thứ nước đang sôi sùng sục trong nồi đổ vừa ngập bánh phở, rồi nhanh tay bốc lấy chút ngò gai bỏ lên trên mặt, sau đó bưng ra cho thực khách. Những thứ gia vị khác như chanh, ớt, tiêu, tương, cà cuống, rau thơm,… người nấu bây giờ cũng biết thông minh không cưỡng chế bỏ vào bát phở như xưa nữa mà để người ăn tự túc lựa chọn có bỏ vào hay không. Tôi thấy thế lại hay, thực khách sẽ không bao giờ phải nhăn mặt khó chịu vì không thích vị chua chanh hay một thứ gia vị nào vô tình được nhà hàng bỏ vào để bát phở được “tròn” vị.

Phở ngày nay đã đi khắp mọi miền đất nước, từ Bắc Trung Nam, đến đâu người ta cũng có thể ăn được phở, nhưng nếu muốn ăn phở Hà Nội thì chỉ có về Hà Nội, chọn đúng hàng quán thì mới có cơ hội được bát phở ngon lành, đậm đà. Có thể nói rằng phở đã mang đến cho nền ẩm thực đến từ lúa gạo của Việt Nam ta một điểm nhấn rất đặc sắc và riêng biệt, chẳng thế mà người ngoại quốc khi đến nước ta, họ không chỉ nhớ về bánh mì mà còn nhớ khôn nguôi một món có tên “phở”. Phở Việt Nam ngày càng trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước, đồng thời cũng là một món ăn phổ biến của dân tộc ta bao đời, trở thành một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc, đáng nhớ, đáng thử nhất ở đất Hà Thành này.

Thuyết minh về món ăn- Mỳ Quảng

“Anh về nơi xứ Quảng thăm người em phố Hội.

Sông Thu Bồn con nước lững lờ trôi.

Đường chùa Cầu mưa buồn giăng ngập lối.

Rừng thông xanh mưa thấm ướt bờ môi”

Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng – Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.

Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt – Trung.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +14 Bài Văn Thuyết Minh Về Ngôi Trường Em Đang Học Ngắn Gọn

Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.

Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn.

Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích.

Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự “cải lương” này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.

Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút.

Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất.

Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm. Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.

Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng – Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.

Thuyết minh về món ăn- Bún tôm Hải Phòng

Hải Phòng – thành phố của những đóa hoa phượng đỏ rực rỡ, của những cảng biển tấp nập thuyền bè qua lại. Người Hải Phòng nổi tiếng hào sảng, với tính cách dễ thương, trìu mến. Về góc độ văn hóa, Hải Phòng là một trong những thành phố với những cảng biển lâu đời, nên nền văn hóa chứa đựng những đặc sắc văn hóa từ nhiều vùng miền khác nhau. Nhắc về nền ẩm thực, Hải Phòng nổi tiếng với những món hải sản tươi ngon, đầy ấn tượng. Và một trong số đó là món bún tôm, món ăn mà thực khách không chỉ bị hấp dẫn bởi hương vị mà còn bị hấp dẫn bởi những nguyên liệu và cách chế biến độc đáo nữa.

Bún tôm – món đặc sản của người Hải Phòng, cũng như nem cua bể hay bánh đa cua, đã xuất hiện và lưu truyền từ bao đời nay ở đất cảng này. Không ai biết bún tôm là do ai sáng tạo nên, người ta chỉ thấy nó xuất hiện như một điều tự nhiên, một thứ văn hóa ăn sâu vào trong suy nghĩ của mỗi con người nơi đây. Có lẽ xa xưa, khi những người dân Hải Phòng với vùng biển giàu có, đã đặc biệt sáng tạo ra món ăn này để làm mới hương vị bữa ăn hàng ngày. Cứ như thế, bún tôm đã dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể, một đặc sản khó quên mà ai đến Hải Phòng cũng mong mỏi được nếm thử.

Món bún tôm nghe có đơn giản về nguyên liệu thế nhưng để làm nên hương vị một tô bún tôm thơm ngon, đúng điệu lại là sự tập hợp của đa dạng những loại nguyên liệu khác nhau, mà quan trọng nhất là hải sản tươi sống.Khác với các loại bún khác, bún trong món bún tôm được chọn là loại bún sợi to, tròn, như loại bún được sử dụng trong món bún riêu cua mà ta thường hay nấu.

Đôi khi, để tạo nên nét mới, đổi vị, người ta sử dụng bánh đa cua hay bánh đa đỏ – thứ bánh đa đặc trưng của người Hải Phòng để chế biến món bún tôm như một cách thay đổi khẩu vị thường ngày. Về hải sản, người ta thường chọn tôm là thứ hải sản chính để chế biến, ngoài ra, họ cũng có thể chế biến thay đổi các loại khác như mực, cua hay bề bề. Với một vùng đất đa dạng về hải sản tươi ngon như Hải Phòng thì một tô bún tôm hay bún hải sản cũng có thể làm ấm lòng ngay cả những thực khách khó tính nhất.

Về nguyên liệu tôm, loại tôm mà thường được người dân ở đây lựa chọn khi chế biến món bún tôm đó là tôm sú hoặc tôm giảo. Hai loại tôm này không chỉ luôn tươi ngon mà còn cho một lượng thịt lớn, ngon ngọt hơn so với các loại tôm khác.

Về nước dùng, người ta tạo nên nước dùng món bún tôm bằng sườn hoặc xương ống lợn ninh kĩ, thêm nước được chế biến từ tôm, tạo nên một vị béo ngậy thơm ngon, nức lòng du khách.

Người Hải Phòng không như các vùng khác, đối với các món bún hoặc bánh đa, họ thường dùng chung với các loại rau sống như xà lách, rau thơm, húng, … được thái nhỏ để ăn cùng. Các món rau này không chỉ cho tô bún một vị thanh đạm mà còn khiến món ăn thêm dậy mùi kích thích tất cả các giác quan của người thưởng thức.

Về cách chế biến món bún tôm, người Hải Phòng có hai cách thức để chế biến món đặc sản này, một cách chế biến truyền thống mà người Hải Phòng chính gốc hay sử dụng còn một cách là sự biến tấu cho món bún tôm thêm màu sắc và thơm ngon hơn.

Với cách chế biến thứ nhất, rất phổ biến, người ta chọn mua nguyên liệu chính là những con tôm từ những chợ hải sản lớn nhất của Hải Phòng. Tôm được chọn phải còn sống, tươi ngon, đầy đặn. Sau đó, nó được rửa sạch rồi luộc lên để lấy nước dùng. Xương ống của lợn được chọn từ chợ, ninh thật kĩ trong khoảng thời gian đủ lâu để nước có đủ vị ngọt, béo và thơm. Sau đó, ta trộn hai loại nước này, nêm nếm cho vừa miệng là đã có được nước dùng món bún tôm đặc sản rồi.

Tôm sau khi luộc lên lấy nước thì được vớt ra, để ráo sau đó bóc vỏ cho thật sạch. Có một lưu ý nhỏ khi bóc vỏ tôm đó là phải để tôm thật nguội, khi bóc vỏ mới không làm trầy thịt tôm, không bị nát thịt tôm. Bóc xong vỏ, ta bỏ thịt tôm ra bát rồi phi hành khô thật vàng, cho thịt tôm đã bóc vỏ vào đảo, cho thêm một chút nước mắm để tôm có thêm mùi thơm. Sau khi thấy thịt tôm săn lại, rắn chắc vàng đều thì tắt bếp rồi đổ ra bát.

Bún được mua về, chần qua nước nóng rồi múc ra bát, bày biện tôm lên phía trên, thêm một chút rau răm, thì là, hành lá nữa, múc thêm một bát nước dùng còn đang nóng hổi rưới thật đều lên bát bún. Vậy là ta đã có được một tô bún tôm đặc sản đậm chất của người Hải Phòng rồi. Ăn kèm cùng với một phần rau sống đã được thái nhỏ, thì thật đúng là tuyệt vời, đặc biệt là trong một ngày mùa đông lạnh giá.

Cách chế biến này khá đơn giản, được nhiều người Hải Phòng chọn lựa làm cách chế biến món bún tôm ăn trong gia đình. Còn cách chế biến thứ hai là sự biến tấu của cách chế biến thứ nhất, tuy cầu kì, thế nhưng lại mang tới những hương vị độc đáo, riêng biệt cho món bún tôm của người Hải Phòng.

Vẫn với các nguyên liệu chính như cách chế biến đầu, thế nhưng, ở cách chế biến này, người ta còn lựa thêm cà chua, thêm mộc nhĩ, nấm hương, một chút rau cần và thịt ba chỉ. Nước dùng ở cách chế biến thứ hai này cũng công phu và cầu kì hơn cách chế biến trước.

Cũng vẫn là những con tôm tươi ngon, đã được lựa chọn kĩ càng, người ta đem bóc vỏ, bỏ đầu, rút sợi chỉ đen ở thân tôm, còn phần thịt tôm được để riêng ra bát. Sau đó, phần vỏ tôm và đầu tôm được đem đi rang lên thật giòn, bỏ vào cối, giã tầm năm phút rồi đổ một lượng nước vừa phải lọc từ từ và bỏ phần bã đi. Cách lọc này giống với khi chúng ta làm cua trong món bún riêu.

Về phần rau cần, chúng được nhặt sạch, rửa kĩ rồi cắt khúc tầm hai đốt ngón tay. Một chút thịt ba chỉ được thái mỏng, to bản, ướp cùng một chút mắm muối cho đậm đà, mộc nhĩ, nấm hương được ngâm nở, thái nhỏ. Vậy là đã cơ bản xong phần chuẩn bị nguyên liệu, chúng ta cùng bước vào giai đoạn chế biến.

Cũng giống như cách chế biến trước, phần thịt tôm cũng được xào lên cho săn tôm lại thì đổ ra, giữ trong bát tô. Thịt ba chỉ cũng được đảo qua chảo hai ba phút cho chín rồi bỏ thêm nấm hương, mộc nhĩ vào đảo cùng, sau đó cho phần thịt tôm đã đảo vào xào lên cùng. Cà chua được phi hành thơm, đảo cho nhừ rồi cho vào chung với nồi nước ninh xương cùng nước tôm lọc đã được nấu sôi, nêm nếm cho vừa miệng. Cà chua vừa có vị thanh chua, vừa tạo nên màu sắc thật bắt mắt cho món bún tôm. Vậy là đã có được một nồi nước dùng cho món bún tôm ngon rồi!

Rau cần và bún được chần qua nước sôi, để ráo, sau đó được xếp vào tô theo thứ tự bún, rau cần, tôm và thịt ở phía trên, rắc thêm một chút hành lá, rau răm, thì là đã cắt nhỏ, rồi rưới thêm một tô nước dùng thơm ngon là ta đã có một tô bún tôm cực kì đặc sắc rồi.

Phải nói, bún tôm không chỉ đậm đà vị ngon ngọt đặc trưng của xương ninh, mà còn thơm mùi tôm, của thứ hải sản tươi sống cùng với rau và các gia vị khác nữa. Bất cứ ai khi đến Hải Phòng cũng đều luôn mang trong mình niềm yêu thích với các món ăn đặc sản nơi đây mà đặc biệt là món bún tôm này. Một tô bún tôm như là một bức tranh đồng quê đặc sắc với màu đỏ của cà chua, màu xanh của rau và màu vàng cam của những chú tôm thơm ngọt. Về Hải Phòng, người ta không chỉ bắt gặp những quán xá lộng lẫy mà còn bắt gặp những quán ăn đậm chất bình dân với chỉ vài chiếc bàn ghế nhựa kê gọn trên hè phố, một tấm biển treo, chỉ cần thế nhưng cái hương vị thì không đâu có thể sánh bằng.

Những người dân Hải Phòng luôn luôn tự hào về nền văn hóa ẩm thực của mình. Mỗi thực khách đến với Hải Phòng đều không thể nào quên được những tô bún tôm, bánh đa cua hay bánh mì cay, … cùng với tấm lòng tràn đầy thân thiện và yêu mến của người dân nơi đây. Mỗi du khách qua thành phố cảng này đều lưu luyến những nét văn hóa, nét ẩm thực nơi đây mà chẳng muốn trở về.

Thuyết minh về món ăn- Cơm Niêu

Ngày xưa, một thuở khó nghèo, thì dân “cơm niêu nước lọ”, là dân nghèo khó bậc nhất trong xã hội. Nhưng ở vào thời buổi văn minh này, khi người ta nấu cơm bằng nồi nhôm, xoong gang, nồi cơm điện… thì cơm niêu lại là một đặc sản, dân vào nhà hàng dám gọi cơm niêu phải là dân sành điệu và nặng túi tiền.

Gạo Tám, cơm niêu là một đặc sản trong món ăn ngàn năm của người Việt Nam chúng ta. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất. Ở trời đất phương Nam này, gạo ngon nhất là gạo Nàng Hương và các nàng khác… nếu được nấu bằng niêu đất thì thật là tuyệt. Có thể nói gạo Tám, gạo Nàng Hương… mà nấu bằng niêu đất thì như cái đẹp, cái hay của lời ca tiếng hát được người nghệ sĩ tài danh nâng lên làm thế giới tâm hồn bay bổng.

Để nấu cơm niêu đất được ngon, người nấu phải chọn được gạo ngon, phải chọn được cái niêu không rỉ nước, cái vung niêu không được vênh, được lệch. Có gạo có niêu, có nước ngon rồi, thì việc nấu được niêu cơm như ý, cũng là một nghệ thuật. Tính sao cho lượng gạo vừa đủ, ít quá cũng không ngon, nhiều gạo quá thì cơm sống, ngọn lửa phải vừa phải, cơm sôi phải đều và phải ghế (phải đảo) cơm bằng đũa cả. Sau khi cơm đã cạn nước, phải để dưới ngọn lửa (hoặc vùi trong than) ít ra cũng từ 20 phút trở lên. Tóm lại muốn có niêu cơm ngon cũng phải thí điểm hai ba lần mới đạt yêu cầu.

Khi cơm chín rồi, muốn xới cơm ra chén (bát) phải dùng đôi đũa cả mới tạo được cơm có độ xốp, nếu lấy thìa mà xới thì cơm đâu còn tơi xốp và giảm đi cái cảm giác ngon lành.

Cơm niêu đã trở thành hình ảnh của một quá trình lịch sử, quá trình tiến triển của văn hóa ẩm thực Việt Nam. Bạn hãy đi thưởng thức cơm niêu và những ngày nghỉ hãy tự nấu cơm niêu để có một bữa ăn ngon lành

Thuyết minh về món ăn- Bún thang

Theo giải thích của người xưa, chữ thang” trong bún thang có nghĩa là canh — một món canh bổ dưỡng (cũng như sâm thang). Trong các món bún Hà Nội, bún thang là món xếp vào hàng đặc sản cao cấp và đắt tiền nhất, một thứ quà Hà Nội thanh nhã và tinh tế.

Nấu bún thang là một việc khá công phu, từ khâu chuẩn bị đến chế biến. Món bún thang tính sơ sơ phải cần đến 20 nguyên liệu. Công phu đầu tiên là chuẩn bị nồi nước dùng. Độ ngọt của nước dùng được tạo ra từ xương ống đun kỹ, xương gà, mực khô, tôm he nấu sôi cho ra hết nước cốt. Vị ngọt đậm đà của nước dùng là từ các loại nguyên liệu này, hoàn toàn không cần đến đường, bột ngọt. Để nồi nước dùng trong, người nấu phải canh hớt bọt liên tục. Bên cạnh công thức chung trên, nồi nước dùng ngon hay không còn nằm ở bí quyết gia truyền riêng của mỗi hàng bún.

Kế đến phải kể tới công phu chuẩn bị các nguyên liệu ăn kèm như trứng, giò lụa, thịt gà nạc, thịt heo nạc (còn gọi là ruốc sỏi) và trứng vịt muối. Trứng trong bún thang phải tráng thật mỏng, sấy khô, xắt nhuyễn như sợi chỉ vàng, giò lụa ửng hồng thái rối, thịt gà nạc trắng nõn da vàng ươm xé sợi thật tơi, thịt nạc (ruốc sỏi) xắt hạt lựu, xào khô với nước mắm vừa đủ đậm…

Sau khi mọi thứ đã sẵn sàng, người nấu cho bún tươi đã chần kỹ vào bát, dưới đáy có rải chút rau răm. Bún để ăn bún thang phải là loại bún sợi nhỏ, mịn và trắng tươi. Trên mặt tô bún bày mỗi góc một chút trứng, một chút giò lụa, thịt gà, ruốc sỏi. Chính giữa tô là miếng trứng vịt muối, trên rắc thêm tôm tươi giã nhuyễn thành chà bông. Tô bún đầy sắc màu, sinh động và gợi thèm.

Ăn kèm với bún không thể thiếu củ cải ngâm chua, cay, giòn, ít mắm tôm đậm đà. Thứ mắm tôm hăng nồng, mặn gắt không hiểu sao lại rất hợp với món ăn thanh nhã như bún thang. Nhưng đặc biệt nhất là phải có thêm tinh dầu cà cuống, sẽ vô cùng thiếu sót nếu không nhắc đến thứ gia vị tinh tế này trong món bún thang. Chỉ cần một chút trên đầu tăm điểm vào, bát bún thang sẽ dậy mùi thơm đặc biệt. Cà cuống nguyên chất hiện nay rất hiếm, thay vào đó, người bán thường dùng tinh dầu cà cuống làm từ hóa chất nên mùi thơm hắc hơn, song cũng đủ làm món ăn thêm hương.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +15 Bài Văn Tả Biển Lớp 5 Ngắn Gọn Hay Nhất

Những thứ rau thơm, hành lá xanh mướt phủ lên trên sẽ giúp cho bức tranh bún thêm phần màu sắc. Bên cạnh rau mùi, hành hoa xắc thật nhỏ, không thể thiếu rau răm cay the the. Bún thang thiếu vị cay the này cũng hỏng. Mà xét cho cùng, bún thang là bức tranh tổng hòa của màu sắc, gia vị, nguyên liệu, nên thiếu bất cứ thứ nào trong số đó, món bún cũng mất đi vị ngon. Một điểm đặc biệt khác là bún thang thường không cần ăn kèm với rau, có lẽ vì người nghĩ ra món này sợ vị rau sẽ làm lạt nước, kém ngon.

Làm một bữa bún thang quả là tốn thời gian, cần một bàn tay nội trợ giỏi, tỉ mỉ và chu đáo. Thưởng thức một tô bún thang là tận hưởng tất cả sự khéo léo của người chế biến. Vị ngon thanh cảnh nhẹ nhàng của nó thể hiện rất rõ chất thanh lịch của ẩm thực Tràng An xưa.

Thuyết minh về món ăn- Thịt kho tàu

Rất nhiều người Việt nghe nói đến kho tàu” thì đều nghĩ, món ăn này được bắt nguồn từ Trung Quốc. Tuy nhiên người Hoa lại rất ít người ăn món này. Theo nhà văn người nam bộ Bình Nguyên Lộc, chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt.

Cũng có thuyết rằng, món thịt kho bên Tàu từ cái ông tể tướng Vương An Thạch đời Tống nghĩ ra, nhưng xem lại thì cái món thịt kho của ông, chẳng giống gì cái cách mà chúng ta thấy ở miếng thịt kho tàu xứ Việt. Vậy hóa ra cái món thịt kho mà được cả miền Nam hâm mộ ấy, đúng như lời giáo sư Trần Văn Khê nói: món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm.

Thịt kho tàu, cùng với bánh tét, dưa hấu, canh khổ qua dồn thịt, đã trở thành món không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của người Nam Bộ. Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng, đặt cạnh bát cơm trắng thơm nức trên bàn thờ ông bà, bên cạnh đĩa dưa chua, dường như đã thành truyền thống trong mâm cơm cúng tưởng nhớ ông bà tổ tiên.

Thịt kho tàu cũng như bao món kho khác, được nấu như món ăn để lưu trữ dài ngày vào dịp Tết. Nấu thịt kho tàu không khó, nhưng để nấu ngon, cũng không dễ chút nào. Miếng thịt mềm nhừ mà không nát, không bị quắt lại, màu thịt đỏ au ánh lên màu cánh gián, trứng vịt thấm đẫm nước thịt mà không đen, nước thịt vàng trong, không quá nhiều nước nhưng cũng không quá cạn làm khô miếng thịt. Mỗi lần ăn có thể mang ra đun lại, càng nhiều lửa, thịt càng rục, càng mềm, càng ngon. Thịt kho tàu có thể được ăn với nhiều món, cơm trắng, dưa kiệu, dưa giá nhưng có lẽ phổ biến nhất là ăn kèm với dưa cải chua. Có lẽ vì mặn, vị ngọt, vị bùi béo của thịt kho tàu kết hợp với vị chua xen lẫn cay cay của dưa cải muối xối, tạo nên hương vị quyến rũ đến bất ngờ.

Thịt kho tàu thường phải mất mấy tiếng mới mềm được. Chính vì vậy với những người bận rộn, bạn có thể thay thế nước dừa bằng nước ngọt có gas. Thịt nhanh mềm hơn rất nhiều và vàng rất đều, theo đúng màu cánh gián rất đẹp mắt.

Thuyết minh về món ăn- Bánh xèo

Bánh xèo có từ rất lâu, không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng bánh xeo hiện nay có mặc ở  rất nhiều nơi trên đất nước và ở thế giới nữa. Bánh xèo là một món ăn dân dã, bình dị nhưng bánh xèo nó mang một cái gì đó rất riêng cho dân tộc ta.

Bánh xèo thường hay được mọi người làm bán vào mùa mưa, có lẽ nó ăn rất ấm bụng nên mọi ngoài rất thích. Bánh xèo có nhiều vùng làm khác nhau. Ở miền tây thì bánh xèo được làm rất to, miền trung thì vừa và miền bắc thì hơi nhỏ một tí. Mỗi nơi chọn nguyên liệu giống nhau đều là bọt gạo nhưng nhưn và gia vị thì khác nhau. Gia vị nó tượng trưng cho mỗi vùng miền. Nhưng có vùng thì làm bàng tôm thịt bò, thịt heo nạc… có vùng thì làm nấm và giá công với một tí thịt rất ngon.

ở mỗi vùng với mỗi gia vị nó tượng trưng tính vung miền và thể hiện được những nét đặc sắc văn hóa của họ. Phải chăng đó là cái sở thích của mỗi vùng không phải mà nó chính là nền văn hóa lịch sữ của họ.

Để làm được một chiếc bánh xèo không phải đơn giản tí nào, đó là cả một nghệ thuật. Cách gia bột, trộn bột rất quan trọng nó có thể làm bánh ngon hay dỡ thế nào đều phụ thuộc vào nó. Ta có thể dùng thêm các nguyên liệu khác như nước côt dừ để lấy khuấy bột. Nước dừa này dùng để pha bột nhằm làm tăng độ béo cho bánh. Ta cho khoảng 1 lít nước ấm vào 0,5 kg dừa khô đã nạo, nhào trộn và vắt, lược lấy phần nước cốt để riêng, sau đó cho thêm nước vào phần xác dừa, tiếp tục vắt lấy nước nhì và nước ba.

Bước tiếp theo ta khuấy đều bột gạo với một ít nước ấm và tất cả nước dừa ở trên, cho thêm hành lá xắt nhuyễn và bột nghệ để tạo màu vàng đặc trưng cho bánh. Bổ sung thêm gia vị như muối, đường, bột ngọt. Cũng có thể cho thêm trứng gà đã đánh nhuyễn vào bột để bánh dòn và nở hơn hay bổ sung bột mì để tăng độ dòn của bánh.

Nhưn thì tùy theo sở thích của mỗi người. tôm bóc vỏ để ráo, thịt thái mỏng và ướt gia vị. Sau đó ta sào sơ qua cho thịt và tôm săn lại, vừa chín tới. bên cạnh đó ta có thể cho thêm giá, nấm rửa để ráo. Tí khi làm bánh, ta cho cho vào lên trên bột.

Ăn kèm với bánh gồm có rau sống và nước chấm. Hai món ăn kèm này cũng phải chuẩn bị chu đáo qua việc sơ chế nó. Nước chấm thì ta cho tỏi tươi và ớt được bằm thật nhuyễn, cho vào nước ấm. Thêm đường, nước chanh (hay giấm) và khuấy đều, sau đó cho từ từ nước mắm vào, nêm nếm vừa ăn. Nước chấm ngon cho bánh xèo phải có vị mặn vừa phải của nước mắm hài hòa với vị chua của chanh và vị ngọt của đường. Rau sống gồm có nhiều loại và tùy sử thích của tùng người, mà ta nen chọn các loại rau sau: xà lách, rau thơm, diếp cá, cải xanh, lá lốt, đọt bằng lăng, đọt xoài, sôi nhái. Rau phải được rửa sạch, để ráo và xếp ra mâm. Rau nên ngâm trong nước có muối với nồng độ loãng và ngâm trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút để hạn chế các nguy cơ vi sinh vật.

Cách đổ cũng không khó. Ta chỉ cần bắt chảo nóng, cho dàu vào sôi lên ta cho bột vào vào cho nhưn cộng với tí giá và nấm vào úp vung lại để khoảng 2 3 phút ta lấy ra và làm tiếp cá khác. Nếu muốn bánh giòn hơn thì ta để khoảng 5 phút và lấy ra.  Cái quan trọng để có chiếc bánh xèo ngon đó là nguyên liệu và cách pha bột.

Thế là ta đã có một chiếc bánh xèo thơm ngon và bổ dưỡng. hi vọng mọi người ai cũng thích nó.

Thuyết minh về món ăn- Canh chua

Trên mâm cơm hàng ngày thường có ba món: món canh, món mặn, món xào. Món canh thì rất phong phú, đa dạng như canh rau tập tàng, canh bí đỏ, canh cải nấu cá thác lác… Nhưng món canh ăn hoài không biết chán, có mặt thường xuyên trên mâm cơm của người Nam bộ là món canh chua.

Tương tự gỏi chua, canh chua là món có nước nhưng vẫn mang đủ hương vị chua chua, ngòn ngọt, thơm thơm, rất dễ ăn. Đi làm việc về, trời trưa nắng chang chang, được người thân nấu cho tô canh chua vừa miệng, còn gì thích hơn. Mùa đông trời lạnh, ăn canh chua ấm lòng.

Mùa Thu trời ui ui, ăn canh chua đỡ buồn. Có khách sang trọng đãi món canh chua cá bông lau, khách cũng thích. Gặp đứa bạn thân, nấu lẩu chua cá điêu hồng nó “ô kê” liền. Nuôi người thân già yếu, miệng mồm lạt lẽo khó ăn, nấu tô canh chua lươn cho ngọt, ăn được chén cơm, mau hết bệnh.

Tuy là món ăn hàng ngày nhưng muốn nấu ngon phải biết nêm nếm vừa miệng và rau đệm biết dùng đúng cách. Chẳng hạn, lâu lươn nấu với bắp chuối mới đúng điệu. Cá lóc, cá thác lác… nên có rau chút, cà bắp, thơm. Cá linh nấu với bông điên điển hay bông so đũa… Chất chua có thể là me vắt, me trái, lá giang, lá me, khế chua hoặc cơm mẻ… Chất chua muốn dịu thì phải có khóm, cà chua, lá giang có vị chua dịu hơn me. Cơm mẻ là cơm nguội để lên men, tạo nhiều vi sinh, chất lên men chua rất dịu, dùng nấu canh chua lươn, luộc thịt trâu, thịt chó,…

Rau bổi bỏ vào cũng phải theo thứ tự, lớp lang, rau nào lâu chín cho vào trước, có loại nấu lâu sẽ dai, mất ngon như rau nhút, kèo nèo… Có quá nhiều rau bổi để nấu canh chua, mỗi món có hương vị riêng, có cách nấu riêng, tùy theo ý thích mà pha chế. Nông thôn thì có bắp chuối, chuối cây, bông điên điển, so đũa, kèo nèo, đọt choại, rau ngổ, rau muống, rau nhút… Ở chợ có giá sống, bạc hà, cà chua, khóm, rau muống,… Rau thơm như ngò gai, rau om, rau quế góp phần làm cho nồi canh chua có mùi thơm rất riêng, rất hấp dẫn.

Món lẩu chua để đãi khách nấu khá công phu. Phải lấy nước ngọt từ xương heo, xương gà để làm nước súp, sau đó luộc cá điêu hồng hay cá bông lau cho chín rồi vớt ra, nếu dùng hải sản thì tôm, mực tươi, cá thác lác vo viên xếp sẵn trên đĩa, ăn tới đâu nhúng tới đó. Rau bổi cũng vậy, không để sôi lâu vừa mất chất, vừa mất ngon, thỉnh thoảng bỏ vào lẩu hành phi, ớt và rau thơm để giữ vị thơm của món ăn. Nước lẩu pha cho đúng vị chua, ngọt (không chua quá mà cũng không ngọt quá, ngược lại, pha lơ lớ ăn rất chán, không ra mùi vị gì cả).

Ở miền Tây, khi trời vừa sa mưa là mùa của cá linh, lẩu chua cá linh bông điên điển là món ăn khoái khẩu nhất. Cả nhà xúm xít quanh cái lẩu bốc hơi nóng, nước lẩu được các bà nội trợ pha chế chua ngọt rất vừa miệng, rồi thì rổ rau đồng gồm bông điên điển, kèo nèo, rau muống… được nhúng vào cùng với những con cá linh trắng phau, mềm ụm, béo ngậy. Chẳng mấy chốc mà rổ rau vơi dần và nồi cơm gạo mới cùng cạn đáy.

Lẩu chua ăn với bún, canh chua ăn với cơm, canh chua thường kèm với món cá rô kho tộ, nếu không có cá kho tộ thì ăn với tép rang thịt ba rọi cũng được. Vừa qua, có cuộc thi đầu bếp giỏi do các nhà hàng lớn trong thành phố tổ chức, món canh chua bông điên điển đã đứng đầu bảng. Thế mới biết, món ăn đứng hàng “top ten” không phải “nem công, chả phụng” mà có khi chỉ là những món ăn quen.

Thuyết minh về món ăn- Bánh ít 

Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.Từ một câu ca đến những huyền thoại:

“Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”

(Ca dao)

Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại…

Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu – con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới.

Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu… nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:

Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít

Trầu có đầy sao gọi trầu không?

Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo môt đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di

Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng! Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵng ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn.

Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong… và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, song người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +12 Bài Văn Phân Tích 13 Câu Đầu Bài Vội Vàng Ngắn Gọn Hay Nhất

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.

Thuyết minh về món ăn- Bánh cuốn Thanh Trì

Từ Bắc tới Nam đất nước đâu đâu cũng có lúa gạo, có bánh cuốn, bánh tráng nhưng có lẽ bánh cuốn Thanh Trì của Hà Nội vẫn đặc sắc hơn cả: lá bánh cuốn mỏng tang như một lớp lụa mịn màng. Mỗi lá chỉ cần thoa thêm chút mỡ, rắc chút hành khô phi thơm là nổi vị bát nước chấm thơm vị cà cuống đặc trưng đã làm nên phong vị đặc sắc của bánh cuốn Thanh Trì. Đặc sản của một vùng quê:

“Thanh Trì có bánh cuốn ngon

Cỏ gò Ngũ Nhục có con sông Hồng”

Làng Thanh Trì là một làng vào loại cổ nhất cua Thăng Long – Hà Nội. Hàng năm, cứ vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, đầu làng Thanh Trì lại mở hội, trong hội có cuộc thi tráng bánh cuốn giữa các thôn trong làng. Trong cuộc thi, mỗi đội phái tráng cả bánh cuốn lá lẫn bánh cuốn nhân. Ban giảm khảo là những cụ cao niên trong làng và đại diện chính quyền địa phương sẽ chấm điểm cho mỗi đội dựa theo quy định: các đội phải làm theo đúng phưong pháp cổ truyền, trong một thời gian quy định, đội nào tráng được nhiều bánh, bánh mỏng, dẻo, có sắc trắng mịn cùng nước chấm ngon, trình bày đẹp sẽ đạt giải.

Theo thần tích của địa phương, nhân dân đã tụ họp về đây khai khẩn đất từ thời Hùng Vương, An Quốc, Con trai vua Hùng thứ 18 (là bạn của Sơn Tinh) đã từng dựng dinh thự, dạy dân cày cấy sống giữa vùng ao hồ rộng lớn, hai phần ba dân làng sống bằng nghề làm bánh cuốn. Bánh được làm từ những loại gạo ngon, xay mịn như nước, lá bánh mỏng tang như tờ giấy, được thoa thêm một chút mỡ phi hành cho thơm. Bánh cuốn Thanh Trì bao đời nay đã là niềm tự hào của người dân nơi dây.

“Múc lưng muôi bột giàn đều trên khuôn vai, đậy nắp vung lại. Đợi khi mỡ nấp vung ra, mặt bánh phồng lên tức là bánh đã chín. Sau lấy que tre xọc ngang, nguyên một tờ gạo mong manh được nhác ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại…” . Chẳng thế mà những nhà văn nhu Thạch Lam hay Vũ Bằng đều dành cho bánh cuốn Thanh Trì một sự ưu ái riêng….

Thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi. anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi. nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ…nhớ quá, nhớ khôn nguôi!” (Miếng ngon Hà Nội – Vũ Bằng)

Cho dù ngày hôm nay, các công đoạn làm bánh cuốn đã dược cơ hóa thế nhưng trong hội làng, người dân Thanh Trì vẫn phải chế biến theo lối cổ – nghĩa là bội vần được xay từ những chiếc cối đá làm từ đá xanh Thanh Hóa. Và để bánh mỏng tang, trắng mịn thì chậu bột được pha theo một tỷ lệ riêng cua mỗi người.

Cũng thật lạ, bánh cuốn Thanh Trì nguyên liệu chẳng có gì cao sang hay pha chế biến cầu kỳ bởi chỉ cỏ bột xay. nhân làm bằng hành hoa tươi chưng với mỡ hay nhân bánh bằng mỡ thăn cùng hành khô chưng lên để có mùi thơm nhưng làm ẩm khách nhớ khôn nguôi khi thưởng thức.

Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, sắc trắng của bánh nổi bật lên một cách hiền lành cùng những đốm nhân màu nâu đỏ cua hành phi. Nhìn những thếp bánh mới làm óng ả có thể làm bất cứ ai trông thấy thôi cùng thấy thèm.

Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, gạo có ngon thì mặt bánh mới láng mượt, óng ả. Nếu gạo quá dẻo thì bánh nát, còn gạo kém thì bánh sẽ không thơm ngon. Và không thể quên khâu quan trọng là bột. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như cậy. Nếu bột loãng quá bánh sẽ nát, mà đặc quá bánh sẽ dày mình, ăn thô thì đâu được gọi là bánh Thanh Trì.

Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Sở dĩ bánh cuốn tráng từ chiều cho tới đêm bởi bánh tráng xong phải để qua đêm thì mới bay đi mùi nồng của bột. Đến sáng bánh vừa mềm. vừa thơm mát mùi gạo… Người làng Thanh Trì xưa chỉ đội thúng bánh cuốn trên đầu rồi đi rong phố phường. Bây giờ nhiều người làng Thanh Trì vẫn đạp xe đi bán hàng rong Không gì thú vị bằng được thưởng thức đĩa bánh cuốn nóng còn vương sợi trong cái giá lạnh của mùa đông.

Ngắm nhìn bàn tay khéo léo của chị chủ quán đang thoăn thoắt tráng từng chiếc bánh, cuộn nhân lại trong không gian mờ hơi nước từ nồi tráng bánh bay lên giúp những ai đang lạnh giá cũng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ở Hà Nội có một cửa hàng nhỏ bán bánh cuốn Thanh Trì mang cả hương vị của riêng của Hà Nội. Dù chỗ ngồi chẳng đủ, người nọ phải đợi người kia nhưng khách hàng đều chấp nhận để được thường thức một xuất bánh cuốn đúng như vị Thanh Trì.

Bánh Thanh Trì thơm dịu được chấm với nước chấm được pha rất hài hòa. không quá chua cũng không quá mặn và thêm vài lát chả. Chắc chắn, ai đã thưởng thức một lần thì sẽ không thể quên được mùi vị ngon lành đó. Bánh cuốn nóng nhân thịt được “kế thừa” từ bánh cuốn Thanh Trì mà ra.

Những chiếc bánh cuốn nóng óng mượt vỏ bóng mỏng tang, ỏng như lụa để khoe lớp nhân thịt cùng nấm hương ẩn hiện bên trong. Rồi rau thơm Láng, giò chả Ước Lễ trong một bát nước chấm ngon cũng là để tăng thêm mùi vị cho đĩa bánh cuốn nóng. Ngần đó thức dùng trong món bánh cuốn nóng đã cho ta thấy sự trau chuốt của người bán hàng trong món ăn của mình… Sau đó, bánh được tô điểm thêm bằng hành phi vàng thơm nức và chút ruốc tôm hồng như phấn làm đẹp thêm những chiếc bánh cuốn trắng.

Một đĩa bánh cuốn nóng sẽ có mùi hương của gạo mới, độ dẻo vừa phải cả miếng bánh ăn kèm với lát chả quế ngầy ngậy điểm thêm vài nhánh rau ngò, rau húng thơm. Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha sao để mà dậy được cái mùi cà cuống lên thì thật là tuyệt vời.

Dù là bánh cuốn nguội Thanh Trì hay bánh cuốn nóng thì cần phải có nước chấm vừa miệng. Pha nước chấm thế nào là bí quyết riêng của mỗi cửa hàng mà họ luôn giữ kín công thức. Chỉ biết rằng, khách tới những cửa hàng bánh cuốn ngon đều mê mẩn thứ nước màu hổ phách thơm dịu đó.

Theo những người bán hàng thì nước chấm bánh cuốn không thiên về vị chua mà cần cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường. Chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. Có lẽ vì bánh cuốn vốn mềm mại, thanh mát nên nước chấm đi cùng cũng dìu dịu như vậy để hài hòa.

Trước đây, người Hà Nội thường ăn bánh cuốn với đậu làng Mơ rán giòn, nhưng giờ đây bánh cuốn thường được ăn với giò chả của vùng Uớc Lễ – Hà Tây. Chả quế Ước Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn. Chả quế thơm hương vị quế rừng, hương vị thịt nướng thuở hoang sơ, giò lụa thoáng hương chuối quê đồng nội. Ăn miếng chả quế dậy mùi thơm thịt nướng, hương vị cay hấp dẫn của quế chi, ngọt của mật ong, phảng phất mùi thơm quý phái.

Những chiếc bánh cuốn ngon đặc biệt ở độ nóng, giòn và dai của bánh, ở vị thơm của hành phi, vị mặn – ngọt của nước chấm, và với một chút rau thơm, rau mùi, vài ba miếng chả cùng 1-2 giọt tinh dầu cà cuống vừa thơm vừa cay. Không cao sang, cầu kỳ, bánh cuốn là một món ăn bình dị, thân quen đối với mọi đối tượng thực khách, từ sang trọng cho đến tầng lớp bình dân.

Có thể vì thế mà những người Hà Nội đi xa hay những người từ xa tới với Hà Nội đều có chung một nhận xét rằng : Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon và một trong những, món ăn để lại niềm thương, nỗi nhớ đó là bánh cuốn.

Thuyết minh về món ăn- Bánh chưng

Ngày xửa ngày xưa vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền cho hoàng tử nào dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì có thể thay vua trị vì đất nước. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Và khi bánh chưng có từ ngày đó, loại bánh này có ý nghĩa gì mà con người Việt Nam chúng ta lại coi nó là một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết?

Về truyền thuyết của bánh chưng thì chúng ta biết nó ra đời trong sự kiện vua Hùng Vương nhường ngôi cho các con trai của mình. Ông vua ấy đã truyền lệnh cho tất cả những người con mang đến những lễ vật. Không giống như những anh trai mang vàng bạc châu báu mà người con út của Vua Hùng lại dâng lên vua cha hai loại bánh là bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng có từ đó để tượng trưng cho trái đất hình vuông.

Đến ngày nay thì nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày tết giống như một truyền thống đặc trưng. Vật liệu để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp đã ngâm nở ra, đỗ ngâm bỏ vỏ, thịt lợn, lạt. tất cả những vật liệu ấy đều không thể thiếu được.

Về cách gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì lá dong phải to và dài, xếp hai lá lên nhau đổ một lớp gạo xuống sau đó là một ít đỗ bên trên tiếp đến là miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và gạo đỗ lên trên cùng.

Công đoạn nguyên liệu bên trong đã đủ thì chúng ta gấp các lá bánh lên sao cho vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong. Khi này chúng ta phải lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ đỗ đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy những chiếc lạt buộc cố định lại để đem đi luộc.

Còn đối với bánh tròn dài thì cũng tương tự nhưng cần đến lá dài hơn buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông. Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hoặc 30 để đón năm mới hay cùng nhau trông bánh chưng chờ giao thừa qua. Những nồi bánh ấm nồng cùng với sự sum họp quây quần của anh chị em bên nhau như xua tan đi mọi cái giá lạnh đầu mùa xuân. Mọi người không còn những ưu tư phiền muộn mà chỉ còn khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau mà thôi.

Bánh chưng trong ngày tết có những ý nghĩa rất lớn. Tuy khoa học đã chứng minh rằng trái đất không phải là hình vuông như người xưa trong truyền thuyết nói nhưng qua bánh chưng ấy người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về người xưa tổ tiên ông bà đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa ấy. Không những thế nó được sử dụng trong ngày tết vì nó có sự đầy đủ của nhiều thứ nguyên liệu và có vị ngon hấp dẫn. Chính vì thế mà nó không thể nào vắng mặt trong ngày tết truyền thống của nhân dân ta.

Không những thế mà bánh chưng còn để thắp hương thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày tết. Nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh đẹp nhất để có thể đem lên bày trên bàn thờ ông bà với những món hoa quả bánh kẹo trên đó.

Bánh chưng còn làm cho mọi người sum họp gần gũi nhau hơn và có một cái tết ấm lòng không. Anh chị em quây quần bên nhau cùng gói bánh cùng nói chuyện cười vui tươi chào mừng năm mới đến. Không kể lúc luộc bánh tất cả cùng ngồi trông bánh bên ngọn lửa hồng.

Đặc biệt bánh ăn nóng rất ngon tuy nhiên khi nó nguội rồi nhân dân ta còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người không ăn được mở thì cũng có thể ăn được bởi vì khi ninh nhừ như thế rồi thì thịt mỡ không còn ngán như khi luộc bình thường nữa mà nó rất dễ ăn.

Tóm lại bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Và từ khi xuất hiện cho đến ngày nay bánh chưng như khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn cùng với những ý nghĩa của mình. Vì vậy bánh chưng không thể vắng mặt trong gia đình Việt nam ngày Tết.

Thuyết minh về món ăn- Bún bò Huế

Bún bò Huế được yêu thích bởi hình thức bắt mắt và hương vị đậm đà khó quên. Bởi vậy, xứ Huế thu hút du khách không chỉ ở vẻ đẹp của sông Hương, núi Ngự,… mà còn ở món bún bò đặc sản đất cố đô.

Điểm tạo nên sự khác biệt của bún bò Huế chính là sợi bún to, lát thịt bò mỏng mà to bản, nước lèo có màu đỏ cam với vị cay nồng hấp dẫn. Để nấu món đặc sản đất Huế này, người đứng bếp cần thực sự tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu tới các bước chế biến.

Bún bò Huế xưa ra đời từ thời chúa Nguyễn Hoàng (khoảng thế kỷ thứ 16). Tương truyền, xưa có cô Bún xinh đẹp, giỏi giang, thạo nghề làm bún. Tại làng Vân Cù (nay thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), cô Bún đã sáng tạo ra cách chế biến một món ăn mới: Lấy thịt bò nấu thành nước dùng cho món bún. Từ đó, món bún bò ra đời, được lưu giữ và phát triển qua nhiều thế hệ. Đến nay, bún bò Huế đã được cải biên với sự có mặt của nhiều nguyên liệu khác như giò heo, tiết lợn, chả cua,…

Bún bò Huế có nhiều điểm khác biệt so với món bún bò của những địa phương khác. Món ăn này nổi tiếng đến mức gần như ai đã đi du lịch Huế cũng phải thưởng thức ít nhất một lần. Bún bò Huế có những gì? Một tô bún bò chuẩn vị Huế sẽ gồm sợi bún, thịt bò, tiết heo, chả cua và nước dùng. Nguyên liệu làm bún là bột gạo pha với bột lọc theo tỷ lệ chuẩn để sợi bún có độ dai vừa phải. Thịt bò được chọn là phần bắp chân trước, nạm bò hoặc bắp hoa màu đỏ tươi, mỡ bò màu vàng nhạt. Chả cua màu vàng cam bắt mắt được làm từ gạch và thịt cua xay nhuyễn với vị béo, bùi tự nhiên.

“Linh hồn” của món bún bò xứ Huế chính là nước dùng. Nước dùng được ninh từ xương ống bò nên có vị ngọt đậm đà. Ngoài ra, người ta còn thêm vào nước dùng chút mắm ruốc và sả để dậy mùi thơm nồng hấp dẫn.

Một tô bún bò Huế ngon, chuẩn vị đất cố đô phải có hương thơm hấp dẫn. Tô bún có sắc cam của dầu điều, sắc nâu của thịt bò, tiết lợn và sắc xanh của hành, mùi, thêm chút giá đỗ thanh mát. Món bún với đủ vị cay, ngọt, bùi đã thực sự làm “xiêu lòng” thực khách.

Thuyết minh về món ăn- Canh cua

Từ lâu, món canh cua nấu rau đay đã trở thành món ăn dân dã rất quen thuộc với nhiều gia đình người Việt. Canh cua ra đay ngọt mát, bổ dưỡng, hội tụ vị ngon ngọt của nước thịt cua nấu cùng các loại rau mùa hè như mướp, mồng tơi, rau đay… khiến mọi người ai cũng yêu thích. Cách nấu canh cua rau đay đơn giản, không cầu kì, bất kì ai cũng có thể trổ tài nấu món ăn bổ dưỡng này tại nhà cho người thân cùng thưởng thức.

Theo y học cổ truyền, rau đay là loại rau có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tẩm bổ, giải nhiệt, lợi tiêu hóa, nhuận tràng, lợi tiểu, kháng viêm, cầm máu, lợi sữa và an thai. Đây là thực phẩm rất tốt dành cho bà bầu. Trong khi đó, thịt cua đồng chứa nhiều sắt và canxi, nên cua đồng nấu cùng rau đay sẽ tạo thành món ăn không chỉ thơm ngon, ngọt mát mà còn rất bổ dưỡng. Những ngày hè nóng nực mà cả nhà cùng quây quần giải nhiệt bên bát canh cua rau đay thì còn gì tuyệt vời hơn

Cua đồng mua về ngâm nước khoảng 1 giờ đồng hồ cho ra sạch hết đất, cát bám theo. Chắt sạch nước ngâm, rồi xóc rửa cua với nước thật kĩ từ 3-4 lần cho đến khi cua sạch hết cát bẩn. Sơ chế cua: tách riêng phần mai cua và thân ra, bỏ yếm cua. Phần mai cua có gạch, dùng tăm khều gạch đó để riêng ra 1 cái bát con. Phần thân cho vào cối giã hoặc bỏ vào máy xay nhuyễn. Càng giã nhỏ, xay càng nhuyễn thì nước canh càng ngon.

Sau khi xay nhuyễn, bạn cho phần thịt cua đã xay vào 1 chiếc tô, chế nước, dùng tay bóp nát và khuấy cho đến khi thịt cua tan hết ra nước. Đổ hỗn hợp qua rây để lọc lấy nước cua. Lặp lại thao tác vài lần. Rau đay, mùng tơi rửa sạch, thái nhỏ. Mướp bỏ vỏ, thái miếng chéo dày 1cm. Khi có nước thịt cua đã lọc, bạn cho phần gạch đã khều vào, thêm chút muối vào cho hỗn hợp có vị đậm đà.

Bắc nồi nước cua lên bếp đun, để lửa liu riu. Khi nước cua sôi, dùng đũa hoặc thìa gạt khẽ phần gạch nổi lên sang môt bên và cho mướp vào trước. Đợi khi nước sôi trở lại cho rau đay và mồng tơi vào. Đợi nước canh sôi trở lại trong một phút rồi tắt bếp. Thêm mì chính và nước mắm vào món canh sao cho vừa khẩu vị của gia đình.

Món canh cua rau đay phù hợp với nhiều mùa trong năm, đặc biệt là đầu mùa mưa, khi mà cua đồng phát triển mạnh mẽ. Trong bữa ăn, một bát canh cua ăn cùng cà muối và khịt kho thì còn gì thú vị bằng. Để nấu một món canh thì rất đơn giản, còn có ngon hay không là do cách bạn chế biến. Tùy mỗi vùng miền và sở thích của mỗi người mà ta có cách tăng giảm nguyên liệu khác nhau sao cho phù hợp.

Lời kết 

Bài viết bao gồm dàn ý và top những bài văn thuyết minh về món ăn theo mẫu chọn lọc, giúp các em nắm vững những kiến thức cần đảm bảo khi làm bài văn thuyết minh và giúp các em hoàn thành tốt bài văn thuyết minh của mình!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *