Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công về hình tượng người lái đò cam trường và đầy trí tuệ, ông được xem là người nghệ sĩ tài hoa trong chính công việc lao động của mình. Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) theo các mẫu chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em có thêm những hình dung cụ thể cũng như chi tiết về nhân vật này.
Dàn ý bài văn Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà
Mở bài
*Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng người lái đò.
Thân bài
*Khái quát chung về hình ảnh người lái đò
- Lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.
- Ngoại hình: “tay lêu nghêu… chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
- Tài năng và tâm hồn: Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”…
*Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò
- Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
- Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,….
- Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
- Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.
- Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá…
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.
- Ông lái đò là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”
- Ông còn là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
Kết bài
*Khái quát lại vẻ đẹp của người lái đò.
Top 14 bài văn mẫu phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà chọn lọc hay nhất!
Dưới đây là top 14 bài văn mẫu phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà chọn lọc hay nhất dành cho các em học sinh tham khảo!
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 1
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lơn. Ông được mệnh danh là đại thụ trong trong rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ XX. Dù sáng tác ở thể loại truyện ngắn hay tùy bút thì các tác phẩm của ông đều hướng đến khám phá cái đẹp tuyệt đỉnh, siêu việt của thiên nhiên và con người bằng ngòi bút tài hoa, phóng túng và uyên bác vô cùng. “ Người lái đò sông Đà “ của ông là một thiên tùy bút tiêu biểu, một khúc ca đầy hào hứng về mảnh đất và con người Tây Bắc. Cùng với hình tượng sông Đà hùng vĩ, thơ mộng là hình ảnh người lái đò trên sông nước đầy tráng kiệt và tài hoa tuyệt đỉnh được nhà văn khắc họa thật độc đáo. Đoạn trích hình tượng người lái đò sông Đà đã thể hiện tập trung nhất về hình tượng ông lái đò sông Đà mà tác giả có dịp tiếp xúc.
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc những năm 1958 – 1960, Nguyễn Tuân thực sự đã trở thành người giàu có khi ông đã khám phá ra những mỏ vàng, mỏ quặng không phải chỉ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà đó là thứ “ vàng trong tâm “ con người nơi đây. Giữa bao nhiêu của chìm, của nổi của mảnh đất hoang sơ ấy, nhà văn có cái nhìn đặc biệt trân trọng và ngưỡng mộ những người lái đò trên sông Đà. Với ông, họ đều là những thỏi vàng nguyên chất của một khối vàng xã hội chủ nghĩa đã qua thử lửa “ thứ lửa mà không một thỏi vàng giả, một cục vàng pha nào chịu nổi”.
Hẳn rằng, trong tùy bút của mình,ông đang chứng minh cho độc giả thấy chất vàng mười rắn rỏi, quý giá ở ông lái đò chở che người Lai Châu. Từ đặc điểm vóc dáng đến nét tài hoa trí dũng của ông đều khảm vào tâm trí người đọc như một bức phù điêu sống động và hài hòa. Đó là ông lão tuổi đã gần bảy mươi với “ các đầu bạc quắc thước và thân hình cao lớn, gọn quánh như chất sừng, chất mun”. “ Cánh tay ông dài lêu nghêu như cây sào”, “ chân khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng”. Vẻ đẹp của thứ vàng trong tâm hồn ông lái đò đã được tôi luyện qua “ lò lửa “ sông Đà và hiện lên đầy ấn tượng qua đoạn vượt ba trùng vi thạch trận trên sông.
Trước hết, đó là vẻ đẹp tình yêu lao động, lòng nhiệt huyết với nghề và dày dặn kinh nghiệm sông nước của ông lái đò. Làm nghề lái đò chuyên chở hàng hóa dọc sông Đà vô cùng vất vả “ người lúc nào cũng dựng đứng lên, phải luôn mắt, luôn tay, luôn chân, luôn gân và luôn tim nữa”. Biết đã thế nhưng ông từng gắn bó với nó suốt 10 năm liền. Ông từng ngược xuôi hơn trăm lần, chính tay giữ lái cũng sáu chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sáu chèo.
Ông thuộc lòng sông Đà như thuộc bản trường ca đến từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than và cả những đoạn xuống dòng. Ông nhớ như đóng đinh vào lòng những con thác, những mặt ghềnh và thậm chí là bộ dạng ngỗ ngược của những hòn đá trên sông. Đặc biệt ở đoạn sông nhiều thác ghềnh phía Sơn La, sông Đà dàn bàn thạch trận với ba trùng vi, ông đò nắm rõ quy luật phục kích của chúng và nhớ mặt, nhớ vị trí của từng hòn, từng tảng. Sự chú ý, quan sát tỉ mỉ, kỹ lưỡng và ghi nhớ chính xác từng đặc điểm dòng sông của ông đò vừa cho thấy sự nghiêm túc với công việc, vừa thấy lòng say mê, tâm huyết với nghề của ông.
Cuộc vượt thác Đà qua ngòi bút độc đáo của Nguyễn Tuân trở nên sống động như cuộc chiến đấu sinh tử, mà ở đó, ông lái đò Lai Châu hiện lên vẻ đẹp đẽ như một người anh hùng trên sông nước.Giữa trận đồ bát quái, thiên la địa võng đang bủa vây các tay chèo, “ Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả các luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò” thì ông đò vẫn “ cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuồng lái mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Như một chiến binh dũng cảm, ông đò vẫn kiên cường chiến đấu với quân liều mạng ấy dù cơ thể có chịu nhiều thương tích.
Khó khăn mạo hiểm với người lái đò ưa mạo hiểm lại không đáng sợ bằng những lúc “ dại tay, dại chân và buồn ngủ” khi qua những khúc sông không có thác. Dường như, sông Đà càn dữ tợn càng khiến người lái đò càng phấn khích mà bộc lộ hết cái khí chất anh hùng của mình. “ Trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái”. Đó là hình ảnh của một con người với sức khỏe phi thường và luôn trong tâm thể chủ động, ngang tàng khi xung trận.
Người dũng tướng sông Đà ở cái tuổi thất thập cổ lai hy vẫn còn dám thách thức với các tay đò đầy khẩu khí “ Tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà” ông dám khẳng định mình còn đủ linh lợi để chở đoàn cán bộ khảo sát một vòng sông Đà. Cái khẩu khí ấy hẳn sẽ làm yên lòng du khách trong khoang thuyền khi cùng ông vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy hiểm hóc trên sông. Du khách chưa kịp định thần thì chiếc thuyền đã vượt qua trùng vi thứ nhất trong tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác “ Trùng vi thứ nhất có năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm ở lập lờ phía tả ngạn sông. Không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt, ông đò phải phá luôn các vòng vây tiếp theo của sông Đà.
Thủy quái sông Đà đã đánh lừa chiếc thuyền, đánh lừa trí não của người lái đò bằng cách bày bố các cửa sinh, cửa tử lắt léo, không theo quy luật nào. Minh chứng là ở trùng vi thạch thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử hơn, bên trái, bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống lại nằm ở giữa bộn đá hậu vệ, lập lờ cánh mở, cánh khép. Phải là người có cái đầu thép mới đủ tỉnh táo và sáng suốt để vượt qua những thử thách đầu nguy hiểm của Đà giang. Càng dấn thân vào các trùng vi thạch trận, cơ hội sống càng ít ỏi, chỉ cần một chút khuynh suất tay lái thì cả người và thuyền đều tan xác.
Nhưng ta thực sự ngỡ ngàng và thán phục trước sự kiên cường và dũng cảm của ông đò. Nhìn cách ông lái thuyền băng qua các trùng vi thạch trận mà ngỡ như người kỵ sĩ đang thần phục con mãnh thú bất kham. Sóng sông Đà “ hồng hộc tế mạnh như hùm beo” đá trên sông đà như lũ hải tặc gớm giếc. Ông lái đò vẫn hiên ngang chủ động điều khiển chiếc thuyền đương đầu với thử thách trên sông nước.
Bằng hàng loạt các động từ mạnh như: cưỡi lên thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, lái miết… , “ rảo bơi chèo”, “ đè sấn lên mà chặt đôi ra”, tác giả đã tái hiện thật sinh động cuộc chiến đấu không cân sức giữa thiên nhiên hùng vĩ hung tợn và ông lái đò, mà trong cuộc chiến ấy, con người nhỏ bé, đơn độc vẫn giành phần thắng đầy vinh quang. Người đọc như đang được xem một thước phim hành động gây cấn, với những cảnh quay ngoạn mục, mạo hiểm đến thót tim.
Giữa những âm thanh gầm réo ghê rợn của thác, của sóng, giữa bao nhiêu tướng dữ quân tợn đá lớn, đá bé, ông lái đò vẫn không hề nao núng tinh thần “ Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”, và đánh trúng vào cửa sinh để thoát hiểm. Quả thật, hình tượng người dũng tướng sông Đà không chỉ được xây dựng bằng những hiểu biết sâu sắc về phẩm chất những tay đò trên Tây Bắc của Nguyễn Tuân mà còn bằng cả niềm ưu ái đặc biệt của ông dành cho họ – những con người lao động thầm lặng mà dũng cảm phi thường, họ trở thành biểu tượng của cái đẹp trong quan niệm thẩm mỹ tiến bộ của nhà văn.
Nhưng trên hết, trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, ông đò Lai Châu mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh không phải chỉ ở sự trí dũng vô song, mà còn là cái đẹp đạt đến trình độ nghệ thuật, cái đẹp toát ra chất tài hoa nghệ sĩ. Đọc đoạn miêu tả cảnh ông đò vượt thác, ta vừa thấy cái cứng cỏi, bản lĩnh của một chiến binh, nhưng cũng thấy ở ông một hình ảnh của một người nghệ sĩ xiếc đi moto bay, chỉ khác phương tiện biểu diễn của ông là chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo. Với tay chèo lão luyện, ông điều khiển chiếc thuyền nhẹ tênh, lướt đi như không qua các chướng ngại vật trên sông.
Đoạn trích cảnh vượt ba trùng vi thạch trận trên sông Đà khép lại hành trình chinh phục thiên nhiên ở khúc thượng nguồn của ông lái đò nhưng để lại nhiều cảm xúc đẹp đẽ trong lòng người đọc. Ta không chỉ cảm thấy ngưỡng mộ tài năng, khí chất anh hùng, nghệ sĩ của ông lái đò nói riêng, của những người lao động thầm lặng ở mọi miền tổ quốc nói chung mà còn thấy khâm phục khả năng sử dụng ngôn từ, xây dựng hình tượng của ngòi bút Nguyễn Tuân. Tác phẩm “ người lái đò sông Đà “ đã góp phần ngợi ca con người mới, cuộc sống mới trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đồng thời cũng góp phần thể hiện quan niệm thẩm mĩ tiến bộ và thông điệp đầy chất nhân văn: Dù bất kể bạn là ai, bạn làm nghề gì, hãy cứ sống hết mình, luôn tâm huyết với nghề nghiệp bạn chọn bạn sẽ trở thành nghệ sĩ.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 2
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập “Tùy bút sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước “Người lái đò sông Đà” là một thiên tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng thêm.
Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc mưu sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự trở thành hình tượng chân thật và sông động là sự ký thác ý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, văn sĩ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái đò đẹp một cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ dằn mà kỳ vĩ ! Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi ông muốn “ghi” ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự lồn tại sống động trước thử thách ghê gớm của dòng sông Đà. Ta hình dung như cả một “thạch trận trên sông” dàn giăng muốn bổ chụp hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế ấy, sông Đà mới dữ dội và kỳ quái làm sao: “Nó bầy thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc…”. Trong trận đồ bát quái đó “với đá, nước thác reo hò làm thanh viện… những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt”, sông nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội mà kỳ vĩ ấy, hình tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.
Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả cảm vượt lên sóng dữ: “Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có nghị lực phi thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng nước: “có lúc chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt…”.
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con người (ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta đấy là cái dữ dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm, đầy bản lĩnh của ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ tợn kỳ quái cùng lao vào trong cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở nên kiêu dũng, quyết liệt đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ bằng dũng khí tuyệt vời bởi ông “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ… Ông lái đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là “thiên nhiên hay con người đều được chú ý khám phá ở phướng diện văn hóa, mĩ thuật của nó”. Vì thế, ta còn bắt gặp ở đây hình ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp của lòng dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.
Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc “ghì cương” mà “phóng nhanh vào cửa sinh” cho ta thấy ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái bình thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ”… đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Và hình ảnh con thuyền vượt lên “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước…” đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả hê trước sự chiến thắng của ông lái – nghệ sĩ. Và đây – hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh tập trung của sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“…Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tư do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con người lao động bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một cách nhìn, cách khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới ! Chính vì thế tùy bút “Người lái đò sông Đà” nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về sông Đà của Nguyễn Tuân nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà của ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của những người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có thật. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu chì có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.
Đọc hết “Người lái đò sông Đà” mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò dũng mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thẳng, vẻ đẹp ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 3
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy đủ tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là “tay lái ra hoa”.
Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước”, “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”.
“Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”…, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, “canh cửa”, “hất hàm”…
Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp.
Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối… Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà.
Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”… chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”… Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…
Những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái đò đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 4
Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Người lái đò sông Đà” trích trong “Tùy bút sông Đà” (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế đến với Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm “chất vàng” của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm hồn con người. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh sông Đà với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Và nổi bật bên hình tượng ấy là người lái đò dũng cảm tài hoa trên sông nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của ông gắn liền với nghề nghiệp, địa danh “ông lái đò Lai Châu”. Điều này thể hiện, ông là đại diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sông nước, cần mẫn. Người lái đò là một ông lão 70 tuổi. Ông đã dành một phần lớn cuộc đời của mình để lái đò dọc trên sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm. “Trên sông ông xuôi ông ngược trên 100 lần, giữ tàu lái chính khoảng 60 lần”. Chỉ bằng vài câu ngắn gọn giới thiệu về người lái đò, độc giả phần nào đã hình dung ra ngoại hình và tố chất của ông.
Ông lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào, nhỡn giới cao vòi vọi”. Nguyễn Tuân gọi con người này là “thứ vàng mười” bởi ông đã đứng trước thử thách và chiến thắng sông Đà.
Trước hết ở ông lái đò Lai Châu là người tài hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ. Ông tài trí, từng trải, lão luyện trong nghề, đạt đến trình độ “lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ lòng khâm phục của mình đối với người lái đò bằng cách so sánh, liên tưởng độc đáo “sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”. Ông thuộc rõ quy luật phục kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Lòng dũng cảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm xảo quyệt, không chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác nước mà còn bầy binh bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”. Đá mai phục ngàn năm bày binh bố trận những binh pháp tôn tử. Ở vòng này gồm năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Phối hợp với đá và thác nước hò la vang dậy làm thanh điệp cho đá.
Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Nhưng ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra trận địa sóng. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến.
Đến vòng hai, sông Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử hơn, chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ. Ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy quân cứ ào nước xô ra níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lên đòi ăn chết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng sông Đà.
Bị thua ông lái đò ở hai vòng trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng dữ dội hơn. Ít cửa ra vào, bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút vút qua cánh cổng đá để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm tài ba, người lái đò trên sông còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau cuộc vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến “sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì xảy ra”. Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.
Trong quá trình xây dựng nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân chú ý khắc họa nét tài hoa của nghệ sĩ “nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp”. Nhà văn chú ý tạo tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo bao nhiêu, người lái đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự, thể thao kết hợp với nghệ thuật miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ phong phú để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, thành công trong xây dựng nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm trong nền văn học nước nhà.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 5
Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam chúng ta không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây Bắc với những núi cao, thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi bút của Nguyễn Tuân, để rồi năm 1960 ông xuất bản tập Tùy bút Sông Đà trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà. Hình tượng nghệ thuật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà văn tiếp cận tài hoa – nghệ sĩ.
Ông lái đò năm nay khoảng chừng bảy mươi tuổi, ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có một ngoại hình đặc biệt, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp: thân hình ông cao lớn “gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng” rồi “giọng ông ào ào như tiếng nước thác”. Mọi thứ của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc lại dịu êm này, họ hòa vào nhau theo năm tháng, hòa vào nhau trong từng hơi thở nhịp nhàng, ăn ý một cách đến lạ lùng.
Đối với ông lái đò thì sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào trong lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, làm chủ được dòng sông. Đó là tư thế và sự hiểu biết của con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ hoàn cảnh. Ông hiểu về con sông cặn kẽ như hiểu chính bản thân mình vậy, có hiểu ông mới ngự trị, mới làm bạn được với nó. Thật đúng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách mà nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nói.
Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người đó đã nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh, khôn khéo, trí dũng, tài ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không cân sức. Bởi sông Đà có một lực lượng hùng hậu nào thì vách đá, nào thì những cái hút nước xoay tít sâu hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm dưới lòng sông nữa.
Ấy vậy mà ông lão chỉ có một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu, vũ khí duy nhất có trong tay là cán chèo. Để chiến đấu với một sông Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò càng phải nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” thì mới có thể thắng được trong trận đấu sinh tử này.
Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. Ở vòng vây thứ nhất thác sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.
Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”.
Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác sông Đà.
Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng.
Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
Ông lái đò quả thật là một chiến tướng nhưng cũng là một tay lái tài hoa. Mỗi đường chèo của ông đều là nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao động. Sau chiến thắng ông lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình dị. Ông cùng với nhà đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng chả thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một phần trong cuộc sống của họ, có gì mà phải bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả đã trở thành máu thịt, là sợi dây kết nối và gắn bó họ với nơi này.
Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt thở. Nguyễn Tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng, tạo cảm giác về một trận thủy chiến đầy kịch tính, đầy sôi động và không hề kém phần hấp dẫn.
Để viết về dòng Đà giang và ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết đến vậy thì không phải ai cũng có thể viết được, phải yêu, phải hiểu và gắn bó lắm mới viết được kĩ đến vậy. Điều này như một minh chứng chân thực cho sự hi sinh vì nghệ thuật của tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã dành cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật trong con người và cuộc đời. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà nó còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kì. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình ảnh ông lái đò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyễn Tuân như một ông lái bậc thầy, ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác ghềnh chông gai. Ông đã tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân chính trong thời kì mới.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 6
Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước 1945 ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau năm 1945 ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Tùy bút Sông Đà… Người lái đò sông Đà là tác phẩm trích trong Tùy bút Sông Đà được viết nhân chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ – một tay lái ra hoa.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người” (Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”.
Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.
Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ đẹp tâm hồn tính cách:
Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà. Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay những con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy.
Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao !
Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng.
Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu… Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh hoành tráng. Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.
Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”.
Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ.
Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 7
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Tùy bút sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông. Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm.
Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt “ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá”. Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng.
Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại Việt Nam, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ: mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bát cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước.
Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kĩ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này.
Hàng tiền vệ: Có hai hòn canh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khúyp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boong-ke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc: khúyp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc: đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò… rồi liên tiếp các đòn trùng điệp: đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền.
Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.
Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà.
Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa sinh.
Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình.
Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.
Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn Tuân đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.
Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình.
Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau Cách mạng, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 8
Nguyễn Tuân, một tâm hồn yêu cái đẹp, một ngòi bút nhạy cảm, yêu thiên nhiên, đất nước, con người. Sự nghiệp văn chương của ông vô cùng đồ sộ, để lại cho thế hệ sau những tuyệt bút quý giá. Nhắc về thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân, người ta không thể bỏ qua “Người lái đò Sông Đà” rút trong tập “tùy bút Sông Đà”. Tùy bút cho người đọc thấy được sự hùng vĩ của thiên nhiên, khung cảnh tuyệt vời của tổ quốc vùng Tây Bắc, và hơn cả là hình tượng con người chế ngự thiên nhiên qua hình tượng người lái đò sông Đà, một vẻ đẹp lao động giản dị, một chiến binh trên sóng nước Sông Đà và người nghệ sĩ lành nghề trong nghệ thuật vượt thác.
Hình ảnh người lái đò được nhà văn xây dựng qua công việc lao động thường nhật. Đọc đoạn trích, người ta cảm phục cái tài vượt thác của nhân vật. Dường như, sự tài hoa điêu luyện ấy đã lên đến bậc nghệ sĩ. Người lái đò gan dạ, thông minh, hiểu rõ từng ngóc ngách, từng tảng đá trên thác sông Đà dữ dội. Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi miêu tả sự ác nghiệt của thác nước cũng là lời khẳng định sức mạnh chế ngự, điều khiển thiên nhiên của con người và vẻ đẹp của người dân lao động
Ngay từ nhan đề, tác giả đã dành cho người lái đò một ví trí trung tâm, vị trí trọng yếu. “Người lái đò Sông Đà” miêu tả con sông Đà kì vĩ, hung bạo một mặt ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, mặt khác nhằm khẳng định hình ảnh con người làm chủ thiên nhiên. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng vị thế của nhân vật được thể hiện rất rõ. Hình ảnh con người làm chủ sông nước, chinh phục thiên nhiên, một con người nhỏ bé về hình thể nhưng vĩ đại trước thiên nhiên rộng lớn.
Nói về quan điểm của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng để hiểu được vì sao con người trong “Người lái đò Sông Đà” lại đẹp đến thế. Trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp trong quá khứ, cái đẹp nổi loạn, phi thường. Ông tìm đến những bậc nho sĩ tài hoa, những vị anh hùng hào kiệt vang bóng một thời. Sau cách mạng, cái đẹp Nguyễn Tuân hướng tới là sự bình dị, được tìm thấy ở những con người rất đời, rất thường. Từ bác lái đò, đến anh bộ đội, cô dân quân, những nhân vật không tên, bình dị mà cao quý. Ở góc nhìn này, người lái đò Sông Đà là một con người đẹp, một nhân vật đẹp với cuộc sống lao động bình dị, đời thường. Miêu tả hình ảnh người lái đò, tác giả tập trung vào con người đấu tranh với thạch trận Sông Đà để làm nổi bật rõ những khía cạnh của hình tượng này: Một vẻ đẹp của người lao động bình thường, một người anh hùng trên sóng nước Sông Đà và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Người lái đò là một anh hùng sông nước. Cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thạch trận Sông Đà là một cuộc chiến gay go, quyết liệt và dữ dội. Đây không đơn thuần chỉ là một cuộc vượt thác, đây giống như một trận chiến sinh tử. Ở đó có sự giằng co giữa sự sống và cái chết. Chính Nguyễn Tuân từng nói, “Cưỡi lên thác Sông Đà là phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Câu nói thể hiện sự quyết liệt, gay cấn và hiểm nguy, giữa một bên là thạch trận Sông Đà, một bên là người lái đò. Thạch trận với đá hòn, đá tảng, với luồng nước con sóng. Thạch trận Sông Đà “lúc nào cũng đòi ăn chết cái thuyền” với người lái đò “tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, dũng khí của người anh hùng”. Trận chiến sinh tử, giằng co dữ dội. Không phải lúc nào người lái đò cũng thắng, đã có những lúc tưởng như bị nuốt chửng trên thạch trận. Chiến thắng có được không hề giản đơn. Trong cuộc chiến này, người lái đò trở thành người chỉ huy tài tình, bản lĩnh, dũng khí gan dạ. Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của thần sông thần đá. Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái hút nước trên thạch trận. Thậm chí, ông còn hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá, sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá. Ông chủ động tiến, lùi, sang trái, sang phải để vượt thạch trận. Người ta gọi ông là người chỉ huy tài năng cũng bởi vậy.
Tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh của ông lái đò được thể hiện qua từng hành động: “khi thì kẹp chặt lấy cuống lái, khi thì chủ động sải bơi chèo lên, khi cưỡi thác vượt ghềnh, khi chặt đôi con sóng”. Trên thạch trận, có bao nhiêu trùng vi là bấy nhiêu nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt. Nếu không có tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh thì không thể nào làm được việc đó. Giữa thiên nhiên kì vĩ và hung bạo , người lái đò thể hiện một tư thế làm chủ, hiên ngang chế ngự những con sóng dữ. Hình ảnh người lái đò chính là hình ảnh một người anh hùng trên sông nước, một người lao động chế ngự được thiên nhiên.
Viết về người lái đò, Nguyễn Tuân không ca ngợi trực tiếp nhân vật mà chỉ thông qua những lời miêu tả và chiến thắng thạch trận cũng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp, tài nghệ của ông. Trên trang viết của Nguyễn Tuân, người lái đò không chỉ được chú trọng về phẩm chất anh hùng mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp một người nghệ sĩ, một: tay lái ra hoa”. Tài nghệ thuần thục, điêu luyện đã nâng tới mức kĩ xảo. Với tác giả, vốn quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, nghệ sĩ là một hình tượng điển hình trong tư duy sáng tạo văn học của ông. Trong tác phẩm này, nhà văn miêu tả công việc lái đò giống như một nghệ thuật:” Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Câu văn miêu tả rất tinh tế. Phải có sự khéo léo, thuần thục trong nghề nghiệp thì người lái đò mới điều khiển phương tiện của mình được như vậy. Người ta coi ông là nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác, con thuyền vượt sóng dữ, đá lớn để tô đậm thêm tài nghệ sĩ càng đọc càng ca ngợi, tôn vinh của người lái đò.
Người lái đò không chỉ là anh hùng sông nước, một nghệ sĩ vượt thác mà còn là một người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà cao cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ dội, ông cũng chỉ muốn trở về nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này không phải ai cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ, bình dị mà cao quý, linh thiêng.
Hình tượng nhân vật người lái đò hiện lên với ba khía cạnh nổi bật: người anh hùng sống nước, người nghệ sĩ tài hoa và người lao động chân chất. Bằng cái tài miêu tả, quan sát, cách lựa chọn góc nhìn trần thuật và đặc biệt là cách vận dụng ngôn từ đúng, đắt và đẹp. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thể chối cãi, nhưng để xây dựng một hình tượng nhân vật kiệt xuất đến vậy phải cần cả cái tâm, cái tâm yêu quý, kính trọng con người.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 9
Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…” đặc biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả.
Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng.
Bằng kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né làm sao để qua được ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là qua được một ải. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào.
Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”.
Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như ông lái đò Lai Châu? Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn.
Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 10
Nhà văn Nguyễn Tuân được biết đến chính là một trong những cây bút tài hoa, uyên bác. Ông là người cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống luôn khát khao sáng tạo nghệ thuật và ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Nói đến thể loại này thì tác phẩm “Người lái đò sông Đà” chính là một dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân trong thể loại tùy bút này. Trong tác phẩm thì hình tượng người lái đò sông Đà như cũng hiện ra thật giản dị mà cũng thật kỳ vĩ trên dòng sông.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tùy bút “Sông Đà” nổi tiếng in năm 1960, trong đó bao gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Và đây là một tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc ở trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958 ở trên vùng núi này. Nhà văn Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, ông cũng đã có những tháng ngày sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc cho nên đã hun đúc cho ông có một vốn sống sâu sắc. Chính thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đầy chất thơ này cũng đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thi nhân – Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân cũng đã phát hiện ra được rằng chính ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng kia thì sâu trong đó còn phát hiện ra những điểm vô cùng quý báu trong tâm hồn con người. Tất cả ông còn gọi chính là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.” Viết lên tác phẩm “Người lái đò sông Đà” nhà văn Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, phác họa vô cùng hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà mang được hai đặc tính rõ rệt đó là con sông Đà hung bạo và trữ tình.
Không chỉ dừng lại ở đó thì nhà văn cũng đã phát hiện cũng như ngợi ca thêm được chất nghệ sĩ tài hoa, trí dũng của con người lao động mới. Đó chính là chất vàng mười của đất nước trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thông qua hình ảnh của người lái đò sông Đà. Thông qua đó để làm đòn bẩy giúp cho nhà văn đi sâu ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, thêm với đó chính là những người đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa tinh tế.
Đầu tiên nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng lên hình ảnh người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải. Ông lão lái đò cũng lại là một người có nhiều kinh nghiệm đò giang nên người lái đò đã sớm có được lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn thêm với đó là cả sự quyết đoán nữa. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh thiên nhiên vô cùng khốc liệt. Ở hoàn cảnh khốc liệt, khó khăn như thế thì tất cả các phẩm chất ấy dường như cũng đã được bộc lộ vô cùng rõ ràng.
Nếu như không cẩn thận thì chắc chắn rằng người lái đò sông Đà cũng phải đánh đổi bằng chính mạng sống của mình. Thực sự ở đây ta nhận thấy được đây chính là một cuộc vượt thác biết bao nhiêu gian lao, vất vả. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã gọi ra đây là một cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, ở ngay chính trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Độc giả sẽ cảm nhận thấy được đây là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, tất cả dường như cũng đã lại diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh .
Tất cả để ta nhận thấy được ở đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một của con người thông qua đoạn văn miêu tả sâu sắc: “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Chính ở trong thạch trận ấy, hình ảnh của người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng – trận địa phóng thẳng vào mình. Nhất là khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất của nó là “nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác”. Đến ngay cả khi bị thương nặng thì người lái đò vẫn cố nén vết thương lại, rồi hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái vẻ mặt của ông cũng đã méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, hay đưa ra những món võ như đánh đòn âm vào chỗ hiểm.
Khi đã cố gắng phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất một cách an toàn thì tiếp đến người lái đò lại phá luôn vòng vây thứ hai. Hình ảnh ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá của con sông Đà này lắm. Cho đến vòng thứ ba mặc dù có ít cửa hơn, thêm với đó là ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả thế nhưng người lái đã chủ động tấn công thật mạnh mẽ. Khi con thuyền vút qua cổng đá mở khép đầy nguy hiểm kia mới thấy được đây là một cuộc chiến không cân sức. Dòng sông Đà như mang một sức mạnh siêu nhiên đang muốn nhấn chìm con người nhỏ bé kia. Nhà văn Nguyễn Tuân còn xây dựng lên hình ảnh của những bọn đá xanh lè trông thật ghê sợ thế nhưng nó vẫn không thể làm gì được con người, phải chấp nhận chịu thua một con thuyền thật bé nhỏ.
Hình ảnh người lái đò trong tùy bút cũng chính là một người lao động vô danh, nhưng luôn làm lụng âm thầm, giản dị. Người lái đò nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ dằn và trở nên lớn lao, kì vĩ. Nhân vật người lái đò sông Đà trở thành đại diện của con người lao động vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. Có thể thấy được chính người lao động nhờ ý chí kiên cường, với ý chí vô cùng bền bỉ, sự quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đây cũng chính là yếu tố để làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Người đọc dễ dàng nhận thấy được sự nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà trong tác phẩm còn chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Với khái niệm tài hoa, chất nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân luôn có ý nghĩa rộng lớn và không cứ là những người làm thơ, viết văn mà còn là những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ. Công việc của họ có thể là bình thường nhưng lại đạt đến trình độ tinh vi, sự siêu phàm của người lái đò sông Đà. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã xây dựng được một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà ông gọi với một cái tên khá trìu mến đó là tay lái ra hoa. Nhà văn đã thể hiện sự hiểu biết của mình để đặc tả hình ảnh người lái đò như nắm được tất cả quy luật tất yếu của sông Đà và chính vì ông làm chủ được nó cho nên ông đã chiến thắng. Chiến thắng này quả thật đẹp đẽ, lớn lao.
Con sông Đà là một con sông đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay hoặc quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Nhưng hình ảnh con người lao động – hình ảnh ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông đồng thời cũng lại thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông lái đò như lại vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế khi vào trận mạc, ông thật khôn khéo ông cũng thật bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Tất cả mọi giác quan của ông lão đều hoạt động ở chính trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Khi mà đã xong trận, lúc nào cũng ung dung đã thế lại còn thanh thản như chưa từng vượt thác mà tác giả đã miêu tả rõ nét “sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ.
Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng”. Thông qua đây Nguyễn Tuân cũng đã đưa ra một nhận xét đó là cuộc sống này thật quá khó khăn chính vì thế mà phải vượt qua. Khi đã nhiều lần người lái đò phải trải qua thác, đá dữ như vậy thì không còn gì để hồi hộp cũng không còn gì là phải đáng nhớ cả. Nhưng bằng con mắt xanh của mình tác giả đã nhìn nhận ra được người lái đò đó thật tài hoa.
Tóm lại với tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của tác giả Nguyễn Tuân chính là một trong những tác phẩm nổi bật được phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của ông. Người đọc sẽ nhận thấy được tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây bắc thôi đâu, mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nữa. Thông qua tùy bút nhà văn đã khéo léo bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào, sự ái mộ giữa vẻ đẹp của thiên nhiên, con người đất Việt.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 11
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. “Người lái đò Sông Đà”, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
“Người lái đò sông Đà” trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình. Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ cùa người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả…” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ… tác phẩm đích thực ấy còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của thiên nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động: Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 12
Nguyễn Tuân được biết đến như một trong những nhà văn thành công của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của ông hầu hết đều có chiều sâu về sự khám phá và chiêm nghiệm sâu sắc. Người lái đò sông Đà rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được hoàn thành năm 1960. Đây chính là trái ngọt của một chuyến thực tế rong ruổi khắp miền Tây Bắc để tìm kiếm thứ vàng mười trong thiên nhiên và con người của tác giả. Có thể nói ngoài hình tượng sông Đà hung dữ, trữ tình thì tác giả còn làm nổi bật hình ảnh người lái đò dũng cảm tài hoa đạp lên từng lớp sóng cuộn.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn ưa “xê dịch” chất ngông của ông thấm nhuần vào trong từng câu chữ từng hơi thở mang đến cho độc giả một cảm nhận vô cùng mới mẻ. Thứ “vàng mười” đó như được chắt lọc một cách tỉ mỉ qua ngòi bút qua lăng kính của nhà thơ. Sông Đà mang một vẻ đẹp trìu mến trữ tình nên thơ. Hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vốn không có tên gọi cụ thể, đó chỉ là một con người với cái tên gắn liền với nghề nghiệp “Ông lái đò Lai Châu”. Tác giả như cố tình không chỉ mặt đặt tên cho bất cứ ai mà ông muốn chỉ chung, muốn đại diện cho vẻ đẹp của những người lái đò cần mẫn trên sông nước.
Đó là một người lái đò tầm 70 tuổi một người đã dành gần như hết cuộc đời mình để lái đò trên sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm. Trên sông đã xuôi ngược cả trăm lần giữ tàu lái chính khoảng 60 lần. Chỉ với vài câu văn ngắn gọn hàm súc độc giả phần nào đã tưởng tượng lên dáng vẻ của ông một người rắn rỏi và rất kinh nghiệm.
Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào miêu tả ngoại hình của người lái đò bằng những câu văn ngắn gọn xúc tích : “ Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào nhỡn giới cao vòi vọi”. Chỉ bằng ngần ấy câu chữ thôi người ta đã bắt đầu tưởng tượng về một người đàn ông với vóc dáng vạm vỡ, khỏe mạnh rắn rỏi được tôi luyện bởi chính môi trường lao động mà thành. Không chỉ có vóc dáng khỏe khoắn mà ngay cả trí tuệ ông cũng thể hiện là một người vô cùng minh mẫn tài trí. NGười đã chiến thắng được cả Sông Đà, lão luyện trong nghề nghiệp của mình. Qua đó NGuyễn Tuân bày tỏ lòng khâm phục của mình với người lái đò bằng cách dùng biện pháp so sánh “ Sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”
Để thuyết phục hơn đối với người đọc Nguyễn Tuân đã miêu tả lòng dũng cảm của ông lái đò khi dũng cảm vượt qua cả ba thạch trận. Vòng một sông Đà như một kẻ thù nham hiểm xảo quyệt không chỉ có sóng gió mênh mông hút nước mà nó còn bày binh bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”, đá mai phục ngàn năm bày binh bố trận như binh pháp tôn tử. Vòng vây này gồm có 5 cửa trận bốn cửa tử một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Thế nhưng mặc cho sóng cho đá có mạnh thế nào nó cũng không thể đẩy lùi mái chèo của người đàn ông kiên cường này. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến.
Đến vòng hai sông Đà lại càng trở nên hiểm ác với nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh nằm ở phía tả ngạn. dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử, ông lái đò cùng chiếc thuyền như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng ghì cương lái miết vào cửa sinh. Dòng sông trở nên như con thú hoang lồng lên đòi ăn hết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần đá không hề nao núng tỉnh táo và sáng tạo thay đổi chiến thuật để chiến thắng sông Đà một cách ngoạn mục.
Dường như những màn thua ở 2 trận trước càng khiến sông Đà trở nên điên cuồng và dữ tợn hơn bao giờ hết. Vòng thứ ba ít cửa ra vào bên phải bên trái đều là cửa tử luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tình dũng cảm đưa con thuyền vượt qua một cách an toàn.
Không chỉ hiện lên là một con người với khí phách kiên cường rắn rỏi mà ông lái đò cón là một người có tố chất nghệ sĩ. Sau khi đã chinh chiến hết dòng sông Đà ông lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ cá rồng xanh như không có gì xảy ra. Tất cả khó khăn nguy hiểm dường như không còn là vấn đề với người đàn ông này nó trở nên vô cùng quen thuộc và bình thường.
Cái giỏi của Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa được vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của sông Đà mà ngược lại nó như một đòn bẩy để thể hiện sức mạnh sự tài trí thao lược của con người. Thiên nhiên dù có hiểm trở đến đâu cũng không thể nào thắng được con người. Sông càng nguy hiểm thì con người càng giỏi giang và tài ba. Có thể nói bằng câu văn sắc bén, nghệ thuật so sánh miêu tả kết hợp cùng xây dựng tình huống đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò trở thành một sức hút mãnh liệt cho tác phẩm.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 13
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh.
Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: “Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị).
Phi giá trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giãy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng “nóng”: sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: “hung bạo và trữ tình”. Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú, đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác – tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: “Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Trong công thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác “chết người” nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt họ phải tự “chiêm nghiệm” cái cảm giác lạ lùng này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược coNguyễn Tuânre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem.
Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít… tạo nên ở người đọc một cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đúng là một cảnh tượng man rợ như thời tiền sử.
Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, nhưng cao tay nhất là lấy thác lửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như “kẻ thù số một” của con người.
Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: “Cái dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái “áng tóc trữ tình (…) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”; rồi lại “như một cố nhân” trong nỗi niềm du khách, như “cái miếng sáng lóe lên” trong trò chiếu gương con trẻ, như “một bờ tiền sử”, như “một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”… Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ…
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì “dòng xanh ngọc bích” mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”, giữa hai mùa ấy là cái “màu nắng tháng ba Đường thi”… Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để ngầm đề cao chính ông lái đò tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà “bày thạch trận trên sông” với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà… Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”. Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo.
Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà: “rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt… Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng… Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.
Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến…”. Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững “binh pháp của ngôn ngữ”. Với một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà- Mẫu 14
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.
Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Lời kết
Bài viết bao gồm dàn ý và top những bài văn phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà theo những mẫu chọn lọc hay và ngắn gọn nhất, giúp các em nắm vững những kiến thức cần thiết khi viết một bài văn phân tích cũng như giúp các em học sinh có thể hoàn thành bài văn phân tích của mình một cách tốt nhất, chúc các em học tốt!