Dưới đây là top những bài văn mẫu phân tích A Phủ, một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ nhà văn Tô Hoài, giúp các em học sinh nắm vững cách làm bài qua gợi ý hướng dẫn chi tiết kèm tuyển tập những bài văn hay phân tích vẻ đẹp của nhân vật A Phủ được chúng tôi chọn lọc và tổng hợp.

Dàn ý bài văn phân tích A phủ trong Vợ chồng A Phủ

Mở bài 

*Đôi nét về tác giả, tác phẩm và nhân vật A Phủ.

Thân bài 

*Cuộc đời A Phủ

  • Mồ côi cha mẹ, bị bắt đem đi bán cho người Thái.
  • Tính tình ngang bướng, không chịu ở cánh đồng thấp, trốn lên núi và lưu lạc tới Hồng Ngài.
  • Là một trai tráng khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa lại chăm làm, giỏi giang trong việc đồng áng được nhiều cô gái mê.

*Khi bị bắt về nhà thống lí

  • Do đánh nhau với A Sử trong ngày đi chơi xuân mà A Phủ bị bắt về nhà thống lí, tại đây A Phủ bị đánh đập dã man và bị bọn chúng bắt làm người ở đợ để trừ tiền đền bù đánh A Sử.
  • Hàng ngày A Phủ phải đi làm quần quật từ sáng đến tối không chút nghỉ ngơi.
  • Một lần, để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị bọn chúng bắt trói và đánh đập dã man nhưng anh không mảy may một lời van xin hay khóc lóc mà cam chịu trước số phận.
  • A Phủ bị trói đứng ở cột nhà và bị bỏ đói mấy ngày, người trong nhà vẫn hoạt động nhưng không ai quan tâm đến sự xuất hiện của anh. Tủi hổ trước số phận và sự ngang trái của xã hội lúc bấy giờ, trong đêm A Phủ rỉ ra hai hàng nước mắt nhưng đã bị Mị nhìn thấy.
  • Trong lúc tuyệt vọng nhất, A Phủ được Mị cắt dây cởi trói và bảo mình bỏ chạy, hành động cứu A Phủ đó đã khiến anh như được hồi sinh một lần nữa, anh dùng chút sức lực cuối cùng của mình để vùng bước đi.
  • Sau đó, Mị chạy theo và xin đi cùng A Phủ, anh hiểu những gì người phụ nữ này trải qua trong gia đình ấy nên đã cho Mị cùng đến Phiềng Sa.

Kết bài 

*Khái quát lại nhân vật A Phủ và giá trị của tác phẩm.

Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài | Doanhnhan.edu.vn - doanhnhan.edu.vn

Top 11 bài văn mẫu phân tích A Phủ trong Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất!

Dưới đây là top 11 bài văn mẫu phân tích A Phủ trong Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất dành cho các em học sinh tham khảo!

Phân tích A Phủ- Mẫu 1

“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm ra đời vào năm 1952 và nhận được nhiều giải thưởng ý nghĩa về văn học. Câu chuyện này cũng được dựng thành phim và được đông đảo khán giả ủng hộ. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất về cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới sự áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa là nghị lực, khát vọng sống, một lòng đi theo kháng chiến để giành lấy sự tự do, tình yêu và niềm hạnh phúc. Tiêu biểu trong đó là A Phủ – nhân vật đã trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc về sự vươn lên của mình mình. Tác giả Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

Tô Hoài cho A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh đánh nhau với A Sử rồi bị bắt, bị đánh đập ở nhà Thống lý Pá Tra, sau đó ông mới kể về lai lịch của nhân vật A Phủ. Một cách xuất hiện khá đột ngột nhưng lại gây được ấn tượng mạnh, thể hiện nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài. A Phủ từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích nào, bị người làm đem bán cho người Thái ở cùng thấp.

Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới 10 tuổi đầu A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Từng ngày trôi qua, A Phủ lớn lên giữa núi rừng, trở thành một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Anh là một “hình mẫu” được rất nhiều người con gái trong làng mê, họ kháo nhau ““Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng đó chỉ là những lời nói đù bởi A Phủ rất nghèo, lại không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có tiền, suốt đời chỉ đi làm thuê thì làm sao lấy được vợ. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, yêu đời, yêu chính nghĩa, cho thấy sự tự tin của tuổi trẻ.

Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. Đây là lúc anh đánh A Sử (con trai thống lý Pá Tra) để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Sau đó, anh bị người nhà thông lý bắt và đánh đập dã man đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Thế nhưng, dù có bị đánh đau như thế nào A Phủ vẫn chỉ im lặng, thể hiện sự gan góc, mạnh mẽ, dám làm dám chịu của mình.

Chỉ vì sự việc đánh A Sử, anh phải làm không công cho nhà thống lý Pá Tra suốt đời. Điều này phản ánh xã hội lúc bấy giờ luôn tìm cách để đẩy những người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, yên lòng. Những ngày tháng sau đó, A Phủ làm việc quần quật cả ngày “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì anh cũng làm phăng phăng mà chẳng hề tính toán thiệt hơn. Một hôm, vì mải bẫy nhím A Phủ để hổ ăn thịt mất một con bò, anh thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh nghĩ rằng việc này rất dễ dàng, nhưng thống lý không cho, anh điềm nhiên cãi lại, anh chẳng sợ bất kỳ ai, dù là hổ hay thống lý cũng thế cả thôi.

Thế rồi A Phủ bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai” để chết thế mạng cho con vật bị mất. Lúc này, A Phủ ý thực được sự sống chết của mình, đôi mắt anh lộ rõ sự đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất, sẵn có, A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. Và với sự trợ giúp của Mị, A Phủ đã được tự do, cùng Mị thoát khỏi Hồng Ngài. Sau đó cả hai quyết định đi theo tiếng gọi của cách mạng, trở thành người công dân có ích cho đất nước.

Bằng ngòi bút tài tình và lối miêu tả tinh tế, tác giả Tô Hoài đã làm nổi bật hình tượng và khí phách của nhân vật. Cả A Phủ và Mị đều là nạn nhân của sự nghèo khổ, đều bị chà đạp bởi địa chủ giàu có lộng quyền. Nhưng dù bị áp bức họ vẫn luôn đấu tranh để giành lại sự tự do và hạnh phúc của mình.

Phân tích A Phủ- Mẫu 2

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này.

Lai lịch của A Phủ: Tác giả đã cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong hoàn cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lí rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ còn sót lại một mình A Phủ. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi.

A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”.

Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Tuy nhiên với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc tươi sáng?

Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ mối thù giai cấp. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ. Bọn thống lí và chức việc kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi…

Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như hổ mang phù”. Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra bất khuất, cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, người phát đơn kiện cũng là người xử kiện, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí.

A Phủ đã bị thống lí Pá Tra buộc làm nô lệ để trả nợ “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Thế là cũng như Mị, A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của chủ nô thống lí Pá Tra. Từ đây A Phủ bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.

Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ lại. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết.”Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng.

Phân tích A Phủ- Mẫu 3

Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là phẩm chất, khí phách và tâm hồn của một chàng trai hoang dại A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Tô Hoài đã để A Phủ xuất hiện trong tác phẩm khá đột ngột, thông qua cuộc đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược thời gian để kể lại lai lịch của A Phủ. A Phủ là một chàng trai có số phận bất hạnh. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ đã chết trong một trận đậu mùa khủng khiếp. A Phủ mồ côi bị người ta bắt đem bán cho một người Thái ở bản dưới. Chốn về những bản vùng cao, mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm thuê để kiếm sống. A Phủ học đủ thứ nghề: “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Ngoài cái vòng vía đeo trên cổ, A Phủ không có bạc, không có ruộng. Rồi vì đánh A Sử mà A Phủ bị buộc làm người ở gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra.

Ta thấy như A Phủ đã bị buộc phải điểm chỉ bằng cả bàn tay của mình vào bức văn tự bán chính cuộc đời của mình, sự sống của mình, hơn thế nữa, còn bán cả cuộc sống của những kiếp con, kiếp cháu mình cho bọn nhà giàu để trở thành người ở gạt .Từ đó A Phủ phải làm việc quần quật đủ các việc công việc nặng nhọc và nguy hiểm như: cày ruộng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, quanh năm suốt tháng chỉ có một mình. Rồi vì để hổ bắt mất bò, A Phủ bị đánh bị trói. Kiếp sống của A Phủ không đáng giá bằng kiếp sống của một con bò. Để mất một con bò, A Phủ lại bị thống lý Pá Tra trói đứng vào cột chờ chết.

Sức phản kháng bị tê liệt đến mức thống lý Pá Tra bắt A Phủ tự đóng cọc, tự mang dây để hắn trói A Phủ vào cọc. A Phủ chỉ còn biết làm theo thống lý, A Phủ không nghĩ được gì hơn. A Phủ cam chịu và chấp nhận cảnh ngộ của mình. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mũi má đã xám đen lại” của A Phủ và Mị vô tình nhìn thấy chính là tột cùng cho sức chịu đựng của nhân vật này, A Phủ vốn là một người thanh niên khỏe mạnh mà giờ đây đang từng ngày từng giờ đối diện với cái chết. Cuộc đời của người nông dân nô lệ ở Hồng Ngài hình như đều kết thúc với cái cọc trong nhà thống lý, khi mọi cố gắng đều trở nên bất lực. Nếu Mị được miêu tả là một người có sức sống mãnh liệt thì A Phủ được tập trung khắc họa ở tính cách bướng bỉnh, ngang tàng, một con người khát khao sống tự do.

Đây cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng. A Phủ sống giữa núi rừng, anh làm được nhiều nghề đến nỗi con gái trong làng vẫn nói: “Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”, vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bò tót lại biết đúc lưỡi cày, đi săn cái gì cũng làm phăng phăng…

A Phủ nghèo không thể lấy nổi vợ nhưng vẫn có đời sống phóng khoáng, hồn nhiên yêu đời, “đang tuổi chơi trong ngày tết đến dù chẳng có quần áo mới như những chàng trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía trên cổ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả báo đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. A Phủ cũng là chàng trai bướng bỉnh, ngang tàng khi không chịu được bất công, anh “chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử…A Phủ đã chạy tới nắm cái vòng cổ, kẹp giựt đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Sự bướng bỉnh, gan góc thể hiện ở chi tiết A Phủ không khóc lóc van xin mà “quỳ xuống chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.

Nhân vật này cũng khao khát tự do đến mức dù mệt và đói, nhưng được Mị cởi trói thì A Phủ cũng vùng thoát chạy đi. Dẫu đi trong đêm tối họ chưa biết đi đâu nhưng thoát ra khỏi nhà thống lý nghĩa là đã thoát được cái địa ngục trần gian. Cuối cùng A Phủ và Mị đã tìm đến khu du kích Phiềng Sa, tìm đến tự do. Từ đấu tranh tự phát, họ đã tiến tới đấu tranh tự giác. Có thể nói ở A Phủ là vấn đề tìm được nhận đường, và đó là bài ca ca ngợi quá trình đấu tranh của con người để tìm đến tự do.

Nếu ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện những diễn biến nội tâm sâu sắc, thể hiện bút pháp miêu tả tâm lý bậc thầy thì ở A Phủ nhà văn tập trung xây dựng nhân vật qua hành động mang tính chất bộc trực, khẳng khái. Điều đó góp phần thể hiện tính cách nhân vật.

Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi nói chung. Cùng với Mi, A Phủ tượng trưng cho số phận những con người từ trong bóng tối của cuộc đời cam chịu, tủi cực, đã vươn tới ánh sáng của sự tự do, ánh sáng của cách mạng. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện sâu sắc qua hình tượng nhân vật A Phủ. Đây quả thực là một trong những nhân vật kiểu mẫu mà Tô Hoài muốn lột tả cho bạn đọc của mình.

Tóm lại, nhân vật A Phủ là điểm nhấn to lớn của tác phẩm. Xây dựng nhân vật A Phủ là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả hành động, tính cách của A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, ước mơ tự do mãnh liệt và những phẩm chất trong con người A Phủ đã làm đẹp thêm vẻ đẹp chung của tác phẩm.

Phân tích A Phủ- Mẫu 4

Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +15 Bài Văn Tả Biển Lớp 5 Ngắn Gọn Hay Nhất

A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.

Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.” Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời.

Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lý cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.

Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.

Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây quấn từ chân lên vai. Anh bị trói trong đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái dây thòng lọng.

Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống, được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.

Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.

Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt lên những khó khăn của cuộc đời.

Phân tích A Phủ- Mẫu 5

Nằm trong tập Truyện Tây Bắc (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận và chính mình.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về lai lịch của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.

A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp nhất của mình. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo”. Chẳng những lao động giỏi mà A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến.

Nhưng tiếc thay, A Phủ lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa, không ruộng nương và vì tập tục cưới vợ của người Mèo phải có trăm đồng bạc trắng cho nên việc lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi. Một chàng trai khỏe mạnh và cá tính như anh đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế.

Tuy nhiên, dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, A Phủ không có quần áo mới như những anh con trai khác mà “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Nhiều cô gái kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Chẳng những thế, ở A Phủ còn là một con người trọng tình và đầy nghĩa khí. Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Điều này đã cho thấy A Phủ là một chàng trai gan dạ và chí khí.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được.

Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.

Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh sát đối với người khác. Là con nợ, là nô lệ cho nên tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay thống lý Pá Tra. Do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”. Rất có thể A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” — những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.

Tuy vậy, với bản lĩnh gan góc, không chịu khuất phục sẵn có, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cọc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp dứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya”. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình.

Hai người dìu nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. Từ đây A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương. Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.

Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Phân tích A Phủ- Mẫu 6

Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.

A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.

Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.

Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.

Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.

Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.

Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.

Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.

A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.

Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.

Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.

Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.

Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +15 Bài Văn Tả Hoa Mai Ngắn Gọn Hay Nhất

Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.

Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.

Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ. Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.

Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.

Phân tích A Phủ- Mẫu 7

Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu.

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.

Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.

Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do. A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.

Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.

Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.

Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.

Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.

Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.

Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.

Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.

Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.

Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn. Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.

Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.

Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.

Phân tích A Phủ- Mẫu 8

Cùng với Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… Tô Hoài cùng là một trong những ngòi bút xuất sắc và nổi bật khi viết về đời sống của nhân dân Việt Nam trong những năm trước và sau cách mạng tháng tám thành công. Trong đó nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài ở mảng văn học hiện thực ấy là các tác phẩm viết về số phận con người ở miền núi phía Bắc, mà đại diện là tác phẩm Vợ chồng A Phủ với nhân vật chính là Mị và A Phủ, những con người bị cường quyền và thần quyền phong kiến nửa thực dân chèn ép, tước đoạt quyền được hạnh phúc, tự do thậm chí là đe dọa cả sinh mạng. Trong truyện ngắn ngoài nhân vật Mị, thì A Phủ cũng là một nhân vật đáng chú ý, với cuộc đời và những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, đáng trân trọng.

A Phủ là một chàng trai có số phận đáng thương, vốn anh không phải là người ở Hồng Ngài mà là người làng Hắng Bia, cũng có một gia đình đàng hoàng. Nhưng thật không may một năm cả làng dính phải trận dịch đậu mùa, cả nhà còn sót lại mỗi mình A Phủ. Rồi người làng vì đói quá đã bán A Phủ cho người Thái, năm đó A Phủ mới 11 tuổi, thế nhưng với bản lĩnh và tính gan bướng anh không chịu sống như vậy, thế là anh bỏ trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê cho người ta tự nuôi sống bản thân. Vốn là một chàng trai chịu khó, lại lăn lộn từ sớm thành thử A Phủ trở nên rất giỏi và thạo nhiều việc “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”.

Không chỉ vậy anh còn là một chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lại chăm chỉ, mà người ta không tiếc lời tấm tắc “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu”. Chính vì vậy A Phủ là người tình trong mộng của nhiều cô gái ở Hồng Ngài, thế nhưng tội thay cho chàng trai, vì nghèo, vì mồ côi, vì những tục lệ cưới xin rườm rà mà A Phủ vẫn không thể có lấy một tấm vợ tử tế. Đang ở tuổi trẻ sung sức, trái tim vẫn khao khát những cuộc vui, dù bản thân chẳng có gì ngoài “chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ”, nhưng A Phủ vẫn tự tin đem khèn, sáo, quả pao, con quay, quả yến đi tìm người yêu khắp Hồng Ngài, rồi cuối cùng đụng phải đám A Sử, đâm sự đánh nhau.

A Phủ đánh thắng, nhưng dưới sức ép của cường quyền, thần quyền, anh phải chịu đền tội, đền tiền cho nhà A Sử, rồi vì không có tiền, nên đành chịu làm kiếp nô lệ, người ở để trừ nợ, một cái nợ mà “Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Vì một trận đánh tuổi trẻ phải đền bằng tự do cả cuộc đời, thậm chí là đời con đời cháu, từ một kiếp người thành kiếp con trâu, con bò cho nhà thống lý Pá Tra. Nhưng cái khổ của A Phủ chưa dừng lại ở đó, anh làm nhiệm vụ mang cả đàn ngựa, bò của nhà thống lý đi chăn ở rừng, hàng mấy chục con một, vào mùa rừng đói, phải đem chăn xa A Phủ còn phải ở lại rừng để chăn dắt.

Ấy thế rồi trong một lần sơ sẩy, mải bẫy nhím, bò ngựa lại nhiều quá A Phủ không kịp đếm, hổ đã vồ mất một con bò. Không hề sợ hãi, A Phủ xông xáo lần theo vết chân hổ, mò được đến chỗ con bò bị hổ ăn thịt, thì chỉ còn lại một mảnh. A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: “Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được”. Chàng trai gan dạ và dũng cảm đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn đầy hung hiểm, thế nhưng bao đời nay kẻ cầm quyền độc ác thường chẳng suy nghĩ đơn giản giống như A Phủ vẫn nghĩ. Bọn chúng vì A Phủ làm mất một con bò mà trói đứng anh ở cái cột giữa sân với mệnh lệnh tàn nhẫn “Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết.

Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy”. Mấy ngày trôi qua, thế nhưng đám tôi tớ nhà thống lý Pá Tra vẫn chưa bắt được hổ về, phe này có lẽ A Phủ phải chịu chết đứng ở cái cột ấy mất thôi. Có thể chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, dù gì cũng phải chết, cuộc đời khổ cực, truân chuyên đã khiến A Phủ cảm thấy tuyệt vọng và bất lực. Ngay lúc gần như đã kiệt quệ thì có một “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Đàn ông hiếm khi rơi nước mắt, mà một khi đã rơi tức là phải thấy cay đắng, đớn đau đến tột cùng. Có lẽ A Phủ đang tự xót thương cho số phận quá đỗi hẩm hiu và đắng cay của cuộc đời mình, bất hạnh từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành, rồi cuối cùng phải đền mạng vì làm mất một con bò. Cuộc đời anh thế mà lại không đáng giá bằng một con bò bị hổ ăn thịt. Cũng chính giọt nước mắt ấy đã cứu cuộc đời A Phủ, nó đã đánh động trái tim và bản năng của Mị, cô đã liều lĩnh cắt dây trói để thả người đàn ông khốn khổ sắp chết, mặc kệ những nguy hiểm của bản thân.

Ngay lúc nghe được hai tiếng thì thào “Đi đi…” của Mị, thì bản năng, khao khát được sống được tự do mãnh liệt của A Phủ lập tức bùng cháy, hâm nóng thân thể đang chực sụp xuống vì đói vì rét, trở thành động lực khiến anh dùng hết sức bình sinh chạy xuống sườn đồi, thoát khỏi gông cùm của cường quyền độc ác. Khi nhìn thấy Mị đuổi theo, xin đi cùng, A Phủ đã không ngần ngại, giúp đỡ người đàn bà đã cứu mình cùng nhau chạy trốn mà không hề hỏi cớ sự. Rồi từ ấy hai người trở thành vợ chồng, điều đó chứng tỏ rằng A Phủ đã có sự thấu hiểu cảm thông và chia sẻ với cuộc đời của Mị. Chi tiết hai vợ chồng cùng nhau làm cách mạng, đã chứng tỏ ý chí và bản lĩnh của A Phủ, con người có nghị lực phi thường, khao khát tự do mãnh liệt, tự giải thoát cho bản thân bằng những con đường riêng biệt. Mà tính cho đến kết truyện A Phủ đã có đến ba lần tự giải phóng bản thân, một lần lúc bị bán đi, một lần trốn khỏi nhà thống lý và lần nữa là khi tham gia vào cách mạng, trở thành cán bộ, trở thành con người mới.

Ngoài nhân vật chính của tác phẩm là Mị, đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ ở Hồng Ngài, vùng núi phía Bắc nước ta những năm tháng đất nước còn nhiều đau thương. Thì A Phủ cũng là một nhân vật góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc đời Mị, cũng như nhấn mạnh thêm những bất công, tàn ác của chế độ phong kiến thần quyền và cường quyền, đồng thời khắc sâu và làm sáng thêm những vẻ đẹp của con người lao động, vượt lên những bất hạnh, đớn đau bằng niềm khao khát sự sống, sự tự do mãnh liệt, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.

Phân tích A Phủ- Mẫu 9

Tô Hoài là nhà văn được coi là có tấm lòng nhân đạo sâu sắc nhất của nền văn học Việt Nam, ông đã có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng và đặc biệt trong tác phẩm ông viết về người dân Tây Bắc đã biểu lộ được trong chính tâm hồn của nhà văn những cảm nhận mới mẻ, về việc xây dựng nhân vật của mình.

Trong tác phẩm việc xây dựng lên hình tượng nhân vật là một điều có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó vang vọng lên biết bao nhiêu cảm xúc đáng nhớ trong tâm hồn, biết bao nhiêu tâm can đang dần thổn thức và sống động trong từng trang văn của nhà thơ, biết bao nhiêu cảm xúc đang dần biểu lộ rõ và đậm đà nhất, những chi tiết đó đã làm sống lên biết bao nhiêu cảm xúc và những dòng tâm trạng sâu sắc nhất trong chính tác phẩm của mình. Chính những điều đó làm cho chúng ta hiểu và có cái nhìn mới mẻ, về chính nhân vật trong tác phẩm, A Phủ là nhân vật được coi là trung tâm của toàn bộ câu chuyện với những dòng tâm lý được xây dựng vô cùng xuất sắc.

Những hình tượng được xây dựng một cách tạo ấn tượng mạnh mẽ nó đang dần tác động đến mọi cảm xúc và giá trị của chính tác phẩm của mình, những giá trị đó không chỉ để lại trong tâm thức của người đọc một nhân vật được xây dựng với những hình mẫu lý tưởng và được xây dựng trong một tình huống tạo nên những điều đặc biệt và có giá trị nhất cho chính những tác phẩm của mình, niềm vui và sự yêu thương của tác giả về chính nhân vật của mình đã được thể hiện một cách chi tiết và có ý nghĩa nhất.

Có Thể Bạn Quan Tâm:  Top +12 Bài Văn Phân Tích Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Ngắn Gọn Nhất

Những dòng cảm xúc đó đang dần được đan xen và cài đặt vào trong tâm trí của tác giả, biết bao nhiêu cảm xúc và nó thấm đẫm lên tinh thần sống của mỗi con người, trong những cảm nhận đó, nó tạo nên những dấu ấn đặc biệt và có nhiều ấn tượng sâu sắc trong cách nhìn và biểu lộ được tình cảm của mình. Trong hình tượng nhân vật A Phủ đã xây dựng lên với những tình huống tạo nên những ấn tượng sâu sắc, cũng là từ một người nông dân nghèo khổ, phải làm thuê cho nhà lý trưởng là người cần cù, chịu khó, nhưng một lần đi chăn trâu để cọp bắt mất một con trâu.

Chính những điều đó làm cho hắn phải chịu đựng những cực khổ do gia đình nhà lý trưởng gây ra, chúng trói A Phủ vào và hành hạ, chính những điều đó làm cho chúng ta cảm thấy sự bất công mạnh mẽ trong xã hội lúc bấy giờ, những người nghèo khổ, luôn phải chịu đựng những bất hạnh, và hàng loạt những tình huống đã làm lộ lên cho chính nhân vật biết bao nhiêu cảm xúc và những tình huống tồn tại ở đây.

Những điều đó không chỉ làm thổn thức lên tâm can của người đọc khi chứng kiến những tình huống cảm xúc, đau thương nhất, những cảm xúc đó đã chính là những lúc nhân vật phải chịu đựng những khổ đau nhất, những hình thức tra tấn của bọn thống trị đã làm cho những người nông dân này, nghèo khổ, chúng tra tấn ngoài tâm hồn mà còn cả thể xác, những hình ảnh đó đã làm cho A Phủ phải chịu đựng rất nhiều những tình huống éo le, bao nhiêu cảm xúc đang dồn nén, và tác động mạnh mẽ đến chính tâm hồn và giá trị của chính tác phẩm.

A Phủ từ một người hiền lành nay phải chịu đựng những tình huống vô cùng bất hạnh, và chi tiết nổi bật nhất trong tác phẩm về nhân vật này, có thể thấy đó là những biểu hiện của giọt nước mắt A Phủ đây là tình huống để biểu thị tình yêu thương của con người sẽ được nở rộ và biểu hiện ở đây, nhiều tình cảm và sự chân thành da diết đã được biểu lộ một cách cụ thể và chi tiết nhất về chính nhân vật của mình, có thể thấy Tô Hoài xây nhân vật khá thành công, trong cách xây dựng tình huống và hoàn cảnh mà nhân vật phải chịu đựng.

Nhưng chính từ những tình huống đó mà nhân vật lại biểu hiện được tâm hồn và tâm lý của chính mình, những lúc đau đớn về thể xác đã làm cho tác giả phải chịu đựng những đau đớn, và cảm giác đang bị kìm nén, trong những cảm xúc mạnh mẽ và có giá trị nhất đối với mỗi con người. A Phủ biểu hiện là một thanh niên khỏe mạnh, đến những chi tiết bị bắt và hành hạ một cách dã man, tất cả những điều đó đã làm cho nhân vật được biểu hiện lên một cách sâu sắc về chính nhân vật và hoàn cảnh trong tác phẩm này.

A Phủ hiện lên trong những hoàn cảnh éo le, của người nông dân nghèo khổ, cả cuộc đời phải chịu cảnh làm thuê, và sống kiếp trâu ngựa, và chi tiết thể hiện được tâm hồn của A Phủ đang phải chịu những cảnh đau khổ và tụt cùng nhất đó là chi tiết giọt nước mắt, chính những giọt nước mắt đó đã biểu hiện được một điều đó là A Phủ đang chịu những giây phút đau đớn nhất trong cuộc đời của mình.

Tô Hoài đã xây dựng lên nhân vật với những tính chất vô cùng điển hình, những biểu hiện đó đã được chính tác giả xây dựng trong mọi tình huống có ý nghĩa và có tác động sâu sắc đến tâm hồn và giá trị của chính tác phẩm của mình, những điều đó đã làm cho nhân vật phải chịu những tổn thức biết bao trước số phận của chính mình, đối với cuộc đời này.

Giá trị của nó không chỉ để làm tăng lên hình tượng về nhân vật mà nó còn biểu hiện được một nhân vật nổi bật cho người nông dân đang phải sống trong những cảnh sống nghèo khổ, và phải chịu những hình ảnh và kiếp sống trâu ngựa nhất. Cách xây dựng lên nhân vật đã có ý nghĩa tăng lên giá trị cho chính tác phẩm của mình, những tác phẩm để lại bao nhiêu ý nghĩa và mang lại nhiều bài học có giá trị về tình yêu thương giữa con người với con người.

Cảm xúc và tâm hồn của chính tác giả đang được biểu hiện một cách ý nghĩa và có giá trị nhất nó tác động mạnh mẽ và có tác động sống động lên tâm hồn của chính nhân vật những cảm xúc tuyệt vời và mang nhiều ý nghĩa nhất đối với cuộc sống của con người. Hình tượng nhân vật A Phủ đang được tác giả xây dựng một cách thành công nhất với những hình mẫu lý tưởng, những diễn biến tâm lý đang được khai mở và tạo nên nhiều những ấn tượng mạnh mẽ.

Giá trị của tác phẩm luôn luôn được nâng cao và nó đem lại biết bao nhiêu ý nghĩa mạnh mẽ cho cuộc đời và chính tác phẩm của mình, giá trị của cuộc sống luôn luôn được tạo dựng nhờ những kinh nghiệm và cách sáng tạo của tác giả về những hình ảnh xuất hiện trong chính cuộc đời và ngôn ngữ đang dần biểu hiện trong những trang sách vở của mình. Mỗi lời văn sẽ in đậm trong các giá trị của nó.

Phân tích A Phủ- Mẫu 10

Nếu được hỏi về một trong những tác giả là ngòi bút lão làng trong nền văn học Việt Nam, có lẽ ta sẽ nhớ tới ngay Tô Hoài bởi những kiệt tác xuất sắc ông để lại, và còn bởi sức viết dồi dào, những đầu sách đạt kỷ lục về số lượng của ông. Đọc văn Tô Hoài ta như tìm thấy những phong vị vùng núi, quê hương, phong tục tập quán, như được mở mang thêm tri thức và hiểu biết. Đặc biệt hơn ta hiểu thêm về con người, tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ và số phận của họ. Trong đó, không thể không nhắc tới nhân vật A Phủ trong truyện ngắn vợ chồng A Phủ của ông, đã để lại cho ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.

Quả thực, đọc vợ chồng A Phủ, ta không chỉ đau đớn thay số kiếp của Mị, một cô gái vốn xinh đẹp, thuần khiết, như bông hoa ban trắng đang thời kì nở rộ đẹp đẽ và tràn đầy nguồn sống là thế. Nhưng lại trở thành một người đàn bà suốt ngày chỉ biết lo công việc đến nỗi lùi lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa” không còn khát khao yêu đời, bản thân cũng chỉ như con trâu con ngựa, bị hành hạ đánh đập, cuộc sống không hề có tình yêu, như cỗ máy vô tri vô giác…

Không chỉ hiểu về Mị, ta còn biết tới một nhân vật, anh tên là A Phủ. A Phủ tuy chỉ là tuyến nhân vật phụ, không phải nhân vật số phận trung tâm như Mị. Nhưng cuộc sống của anh, số kiếp và trái tim anh cũng tương tự như Mị. Một người đàn ông thanh niên cũng tràn đầy nguồn tươi trẻ là thế, nhưng rồi cũng dần bị bào mòn theo thời gian.

A Phủ từ đầu không phải là một nhân vật sinh ra trong hoàn cảnh đói nghèo, anh cũng không phải người làng bên ấy, bố mẹ đẻ của A Phủ ở tận Háng-bla. Vì mọi người đều bị bệnh đậu mùa, nhiều người chết, gia đình A Phủ, em bố mẹ A Phủ cũng chết. May mắn thay A Phủ còn sống, cuộc sống của anh cũng không yên ổn, vì mất nơi nương tựa, nên bị người ta đem làm thứ bán đi để lấy tiền, đổi lấy thóc.

Nhưng hồi ấy, A Phủ đã bộc lộ đúng bản chất của một chàng trai mạnh mẽ, tuy mới mười tuổi “nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài” A Phủ lớn lên, vẫn giữ nguyên bản chất lương thiện và sự mạnh mẽ vốn có, anh “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo” “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà” qua đó cũng có thể nhận ra cuộc sống của A Phủ lúc đầu cũng thật tốt đẹp, một chàng trai như thế, luôn lương thiện, lại mạnh mẽ, bản lĩnh, dũng cảm lại có sức khỏe làm việc hơn người, anh xứng đáng có được một cuộc sống, tình yêu trọn vẹn. Nhưng, vì không cha, không mẹ, nên A Phủ cũng gặp nhiều khó khăn trong tình duyên.

Ngày hôm ấy, không may anh gặp A Sử, hành động bản lĩnh, gan bướng của A Phủ “năm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp” cái vòng cổ này thanh niên trong làng ai chẳng sợ, vì nó là biểu tượng của người con nhà quan, con nhà quan có chức có quyền, ai dám làm gì họ. Nhưng A Phủ lại khác, không những dám đánh mà còn đánh đau, đánh “tới tấp” hành động quyết liệt, phản ứng dữ dội và mạnh mẽ như vậy, quả khiến người khác phải nể phục. Cũng bởi A Sử là kẻ sai, A Phủ làm mọi chuyện đều có lý và cái đúng riêng của nó.

Nhưng số phận của một con người nhỏ bé, thấp cổ bé họng trong một xã hội còn nhiều hủ tục lạc hậu, chúa đất phong kiến được coi như vua, người đứng đầu thì A Phủ dù có thắng A Sử, nhưng “phép vua thua lệ làng” anh phải chịu những hình phạt hết sức dã man, tàn nhẫn, vô lý, vô nhân đạo. Khiến mỗi chúng ta khi đọc và cảm nhận đều thương a Phủ biết chừng nào, con người không cần biết phải trái đúng sai, chỉ dung túng cho thế lực có tiền, A Phủ bị lôi về nhà thống lí Pá Tra xử phạt, “bọn trai làng xô đến, chắp lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá” mỗi đợt lại có người “xô đến đánh” cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút” A Phủ như một bao cát, liên tục bị hành hạ nhẫn tâm, bị đối xử rẻ mạt, độc ác đến mức không có lương tâm, không biết phải trái đúng sai, cả hiện thực hồi ấy như bao trùm trong một bầu không gian của sự lạc hậu, u mê trong nhận thức.

Vốn là một chàng trai từ nhỏ đã bộc lộ một bản tính như vậy, lại có sức khỏe dồi dào, nhưng A Phủ cũng không thể vì thế mà thoát khỏi cái áp bức bóc lột tàn nhẫn gấp nghìn lần của chúa đất. Thống lí Pá Tra, xã hội phong kiến quần ngư tranh thực, u u mê mê, đã khiến một anh chàng vốn hiền lành, chất phác lại mạnh mẽ gan góc như thế. Giờ trở thành một con người cam chịu, nhẫn nhục, như một kẻ nô lệ không hơn không kém. Từ việc “A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá” rồi đào hố chôn mình. Và cũng không may trong một lần vì mải mê bẫy nhím, làm hồ bắt mất một con bò, A Phủ đã bị triệu tới, bị trói đứng một cách nhẫn tâm, anh cũng không phản kháng vẫn bị trói buộc như một kẻ nô lệ.

Gặp Mị trong đêm đông giá rét, tất cả sự tàn nhẫn của bọn quan lại đã khiến một chàng trai như A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” cả thân thể đau đớn, cuộc đời có thể chấp hết, dòng nước mắt có thể hiểu như một sự cam chịu nhẫn nhục, chà đạp đến cùng cực, một giọt nước mắt như nhìn thấy được cái chết đang ngay trước mắt, A Phủ khóc không phải vì anh sợ chết, mà anh thấy không đáng khi sống một cuộc sống như thế này, một khát khao yêu đời, sẵn sàng chống lại cái cường hào ác bá, nay không thể làm gì khác, không được sống là chính mình, bị đối xử bất công vô lí mà vẫn khoanh tay đứng yên chịu đánh đập hành hạ. Tất cả cái hiện thực đã dồn vào dòng nước mắt của anh.

Nhưng, vốn dĩ mang trong mình bản lĩnh, ngay khi được Mị cắt dây trói, A Phủ dù đau đớn nhưng vẫn nghĩ tới cái chết có thể tìm đến, A Phủ vẫn cố gắng “quật sức vùng lên, chạy” giữa bóng tối, A Phủ không còn gì sợ hãi, bản lĩnh khiến anh băng qua cái bóng tối bao trùm, như thoát ra khỏi tất cả những ràng buộc, hủ tục trói buộc vô hình, bóng đen bao trùm lấy số phận mình để tìm về phía ánh sáng, cùng Mị.

Cùng nghệ thuật khắc họa nhân vật, giọng văn trần thuật linh động, đã cho ta một cái nhìn thật đẹp, tuy đau đớn nhưng vẫn mang đến ngọn lửa niềm tin ấm áp truyền vào lòng người đọc. Cảm ơn Tô Hoài, và có lẽ sẽ còn mãi A Phủ, một chàng trai tuyệt đẹp của núi rừng Tây Bắc sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc muôn thế hệ.

Phân tích A Phủ- Mẫu 11

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất cũng là tác phẩm đề đời của nhà văn Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Và một trong những thành công của truyện là nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ. Khi miêu tả nhân vật A Phủ nhà văn đã cho thấy tài năng của mình khi bắt đầu kể chuyện từ thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời của A Phủ, để từ đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Và trong tác phẩm này, tác giả đã chú ý chọn lựa hai chi tiết tiêu biểu làm nên cá tính của A Phủ: Lần thứ nhất, lúc bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá. Lần thứ hai là lúc được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy”. Đó là sức mạnh phản kháng ở người nông nô nghèo miền núi.

A Phủ xuất hiện trong tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Trá, khi hắn dám phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Ta tưởng đây là nhân vật có quyền thế nhưng không A Phủ cũng giống như Mị, anh là người nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành tôi đòi, con ở, nô lệ cho gia đình thống lí.

Tuổi thơ của A Phủ đầy bất hạnh, mới mười tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành đứa bé tứ cố vô thân không cha mẹ, không anh em, không có ruộng, không có bạc, đã vậy lại bị người làng xấu bụng bán xuống núi thấp để đối lấy thóc, A Phủ không chịu liền trốn lên núi cao lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê làm mướn. Đến lớn, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày ruộng cuốc đất. Nhưng dù lớn lên trong cảnh nghiệt ngã, A Phủ vẫn hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống tự nhiên, yêu chính nghĩa. Anh vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.

Tuy nhiên, đâu chỉ có vậy, số phận nghiệt ngã đã biến A Phủ trở thành nông nô cho nhà thống lí chỉ vì đánh A Sử, người đã phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Trước khi trở thành nông nô cho nhà Pá Tra, A Phủ phải tham gia xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo “mặt A Phủ xưng lên môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đến khi trở thành nông nô cho nhà thống lí Pá Tra, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ở ngoài gò ngoài rừng. Đặc biệt phải chịu hành hạ về nỗi đau tinh thần khi bị con ma trình mặt, phải chịu đựng những lời chửi rủa cay độc của mọi người và Pá Tra.

Nhưng một lần nữa, Tô Hoài lại cho thấy niềm tin của ông vào giá trị của con người. Nó không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà nó còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng ở nhân vật A Phủ. Điều này được nhà văn Tô Hoài chọn lựa chi tiết trong vụ xử kiện, khi bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc đến đây cho rằng A Phủ hèn nhát, nhưng không, nếu hèn nhát thì sao A Phủ dám đánh A Sử có nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo, ngược lại phải chăng hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động của sự phản kháng, đó là biểu hiện bất tuân, nén nỗi căm giận vào trong lòng, không nói, không thanh minh đó chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người nhân vật này.

Chính cá tính gan góc, mạnh mẽ đó của A Phủ đã tạo nên những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong anh. Khi hoàn cảnh càng trở nên nghiệt ngã, đau khổ thì sức phản kháng lại càng mạnh mẽ. Nó được thổi bùng trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hồ vồ mất bò do mải bẫy nhím, bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện và bắt đứng trói vào cột không cho ăn, không cho uống. Nhưng nhờ sự đồng cảm, tình thương người của Mị, cô đã cởi trói cứu giúp A Phủ. Và trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng ấy lại trỗi dậy và được tài năng Tô Hoài thể hiện “A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay.

A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Hành động của A Phủ có lẽ lúc đầu chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết nhưng sau đó nó đã trở thành hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng, là khát khao sống, khát khao được tự do và đó cũng chính là cơ hội tốt để sau này A Phủ làm du kích cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng. Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo nên một hình tượng nhân vật đầy nam tính. Khát vọng tự do công bằng được biểu hiện ở A Phủ âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và cũng thật đơn giản. Tính cách của A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông chân chính dân tộc Mông.

Hai lần miêu tả A Phủ ở hai thời điểm khác nhau có ý kiến trái chiều cho rằng lần miêu tả thứ nhất A Phủ đã cam chịu, cam phận đến lần thứ hai thì đó mới là sức mạnh phản kháng thật sự. Điều này không sai, bởi lẽ A Phủ để mặc cho họ đánh vì sức của A Phủ không thể địch lại với sức của hàng trăm người ở đó, nó là sức cường quyền áp bức lên một người nông nô nghèo thân cô thế cô và hơn nữa ở lâu trong cái khổ thì cũng quen khổ rồi, ở cái đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của nhà thống lí Pá Tra thì đâu cũng vậy thôi. Đó cũng chính là sự cam chịu của người nông nô vùng núi cao khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có sự giác ngộ, chưa biết đoàn kết tạo nên sức mạnh chống lại cường.

Và chính lần miêu tả thứ hai khi A Phủ quật sức chạy, nó không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ ở anh mà hành động quật sức chạy đó phải chăng là cơ hội để A Phủ chạy gần đến bên Cách mạng, được giác ngộ để làm du kích sau này. Từ đây, ta có thể thấy được tài năng am hiểu nội tâm con người của Tô Hoài, ông thật sự là một cây bút già dặn khi nhìn thấy hai mặt đối lập ở một con người A Phủ vừa cam chịu số phận nhưng cũng vừa mạnh mẽ, can trường, bất khuất. Đó cũng chính là niềm tin bất diệt của nhà văn vào tâm hồn, sức sống, sự phản kháng quyết liệt ở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, tìm lại chính mình.

Như vậy qua nghệ thuật miêu tả cuộc đời, tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã tố giác giai cấp thống trị miền núi đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành chất phác như A Phủ vào cảnh bị cướp đoạt sức lao động, cướp đoạt quyền làm người. Viết về điều đó, nhà văn đã cảm thông với những khổ đau, bất hạnh của họ đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một lối thoát cho những người nghèo lao động miền núi. Qua đây, một lần nữa thể hiện tài năng nắm bắt cá tính con người và tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài.

Lời kết

Bài viết bao gồm dàn ý và top những bài văn phân tích A Phủ, là một nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài theo một số mẫu được chúng tôi đã tổng hợp và sưu tầm nhằm giúp các em học sinh có thể nắm được những kiến thức cần có trong một bài văn phân tích cũng như giúp các em học sinh làm tốt bài văn phân tích của mình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *